Paul Auster
Sáng hôm sau, Quinn dậy sớm hơn thường lệ so với nhiều tuần lễ trước đó. Trong lúc uống cà-phê, phết bơ lên bánh mì nướng, và đọc qua tỉ số của các trận bóng chày trên báo (đội Mets lại thua nữa, với tỉ số một hai, vì một sai lầm trong lần ném thứ chín), hắn không hề nghĩ rằng mình sắp có cái hẹn phải đi. Ngay cả mấy chữ có cái hẹn phải đi cũng có vẻ lạ lẫm đối với hắn. Đây không phải là cái hẹn của hắn, mà là của Paul Auster.
Và người ấy là ai thì hắn hoàn toàn mù tịt.
Tuy nhiên, hắn thấy mình dần quen với việc bắt chước một người đang chuẩn bị đi. Hắn dọn bàn sau bữa sáng, ném tờ báo lên mặt ghế sô-pha, vào buồng tắm, xì hương sen, cạo mặt, quấn hai tấm khăn tắm đi ra phòng ngủ, mở tủ chọn quần áo. Hắn thấy mình có ý định mặc áo tây thắt cà vạt.
Quinn đã thôi đeo cà-vạt kể từ sau tang lễ của vợ và con trai, và thậm chí không còn nhớ là hắn có còn cái cà-vạt nào trong nhà nữa không. Nhưng nó kia rồi, treo lủng lẳng giữa đám lộn xộn trong tủ quần áo. Nhưng hắn không chọn sơ-mi trắng vì quá trịnh trọng, mà lấy một chiếc áo kẻ sọc xám và đỏ để đi với cái cà-vạt xám. Hắn đóng bộ như trong một cơn lên đồng.
Mãi đến lúc đặt tay lên núm cửa, hắn mới bắt đầu nghi ngại việc mình sắp làm. "Hình như ta đang sắp ra đường," hắn tự nhủ. "Nhưng nếu ta ra đường thì là để đi đâu nhỉ?" Một tiếng sau, khi từ chiếc xe buýt số 4 bước xuống chỗ góc phố 70 và Đại lộ Năm, hắn vẫn không trả lời được câu hỏi ấy.
Phía bên này hắn là Central Park, 2 xanh ngắt trong nắng sáng, với những bóng râm sắc nét và lay động; phía bên kia là nhà bảo tàng Frick,3 trắng tinh và khắc khổ, như thể đã bị bỏ lại cho người chết cư ngụ. Hắn thoáng nghĩ đến bức tranh Anh lính và Thiếu nữ cười của Vermeer, cố nhớ lại vẻ mặt của cô gái, vị trí chính xác của đôi bàn tay ôm quanh chiếc cốc, tấm lưng đỏ của người đàn ông không nhìn thấy mặt. Trong tâm trí, hắn thoáng thấy tấm bản đồ xanh nước biển ở trên tường và những tia nắng đang xuyên qua cửa sổ, rất giống những tia nắng đang bao vây hắn lúc bấy giờ. Hắn đang bước đi. Hắn đang băng ngang con phố và đi về phía Đông. Đến Đại lộ Madison, hắn rẽ phải và đi về phía Nam một đoạn, sau đó rẽ trái và nhận ra mình đang ở đâu.
"Hình như ta đã đến nơi rồi," hắn tự nhủ, đứng dừng trước cửa tòa nhà. Mọi chuyện bỗng chẳng thành vấn đề gì nữa. Hắn thấy bình thản một cách lạ lùng, như thể mọi chuyện sẽ xẩy đến với hắn đều đã xẩy ra rồi. Khi mở cánh cửa sẽ dẫn hắn vào trong sảnh, hắn tự cho mình một lời khuyên cuối cùng. "Nếu chuyện này là có thật," hắn nói, "thì ta phải cẩn thận mới được".
Mở cửa căn hộ là một người đàn bà. Không hiểu sao Quinn đã không lường trước được chuyện đó, và hắn thấy loạng choạng như tầu trật bánh. Mọi thứ đã diễn biến quá nhanh. Trước khi có cơ hội chấp nhận sự hiện diện của người đàn bà ấy, quan sát bà và có được một ấn tượng nào đó, thì bà ta đã đang nói với hắn rồi, buộc hắn phải đáp lời. Vì thế mà ngay ở những giây phút đầu tiên, hắn đã mất chỗ đứng của mình, bắt đầu không đuổi kịp chính mình. Sau này, khi có thời gian suy ngẫm lại về những sự kiện ấy, hắn mới có thể chắp nối lại lần sơ kiến với người đàn bà đó. Nhưng đó là tác phẩm của ký ức, và hắn biết rằng những gì được nhớ lại thường có khuynh hướng đảo lộn những gì mình muốn nhớ. Và kết quả là hắn không bao giờ chắc được là chuyện đã thực sự diễn ra như thế nào.
Người đàn bà ấy khoảng ba mươi, có thể ba mươi lăm, tầm thước, hông nở hơi quá, cũng có thể gọi là ngồn ngộn quá, tùy cách nhìn; tóc sẫm, mắt sẫm, và cặp mắt ấy có một vẻ vừa tự chủ vừa hơi có ý quyến rũ. Bà mặc một bộ áo váy đen, môi tô son rất đỏ.
"Ông Auster?" Một nụ cười e ấp; một cái nghiêng đầu đầy dò hỏi.
"Đúng vậy," Quinn nói. "Paul Auster".
"Tôi là Virginia Stillman," người đàn bà lên tiếng. "Vợ của Peter. Anh ấy đã ngóng ông từ 8 giờ sáng đến giờ".
"Chúng tôi đã hẹn nhau mười giờ," Quinn nói, liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Vừa vặn đúng mười giờ.
"Anh ấy bồn chồn lắm," người đàn bà giải thích. "Trước đây tôi chưa thấy anh ấy như thế này bao giờ. Anh ấy không đợi được nữa".
Bà mở cửa cho Quinn. Khi bước qua ngưỡng cửa vào trong căn hộ, hắn có thể cảm thấy mình đang trống rỗng đi, như thể bộ não hắn bỗng dưng tắt phụt. Hắn đã muốn ghi nhớ những chi tiết của những gì đang nhìn thấy, nhưng không hiểu sao lúc ấy hắn không thể làm nổi. Căn hộ bao trùm khắp xung quanh hắn như một thứ nhạt nhòa. Hắn vẫn biết là nó rất rộng, có lẽ đến năm hoặc sáu phòng, và bài trí rất phong phú, với rất nhiều đồ nghệ thuật, gạt tàn bằng bạc, và những bức tranh đóng khung rất cầu kỳ trên tường. Nhưng chỉ thế thôi. Không hơn một ấn tượng chung chung, mặc dù hắn đã ở đó và đang tận mắt nhìn ngó những thứ ấy.
Hắn thấy mình ngồi trên một cái sô-pha, một mình trong phòng khách. Giờ thì hắn nhớ ra rằng bà Stillman đã bảo hắn đợi ở đó để bà vào gọi chồng. Hắn không thể biết đã ngồi đó bao lâu rồi. Chắc hẳn cũng chỉ một hai phút là cùng. Nhưng nhìn những tia nắng đang rọi vào qua cửa sổ thì có vẻ cũng gần trưa rồi. Tuy nhiên, hắn cũng chẳng nghĩ đến chuyện xem đồng hồ. Mùi nước hoa của Virginia Stillman vẫn lẩn quất quanh hắn, và hắn bắt đầu tưởng tượng xem bà ta ra sao khi không có mảnh vải nào trên người. Rồi hắn nghĩ đến chuyện Max Work có thể sẽ nghĩ gì nếu gã ở đó. Hắn quyết định châm một điếu thuốc lá. Hắn nhả khói vào phòng, khoái trá nhìn từng cụm rời khỏi miệng, tản ra, và khác hẳn đi khi bắt nắng.
Nghe có tiếng ai đang vào phòng từ phía sau, Quinn đứng dậy và quay lại, tưởng sẽ thấy bà Stillman. Nhưng đó là một người đàn ông còn trẻ, mặc toàn đồ trắng, với bộ tóc vàng nhạt của một chú bé. Ma quái làm sao, ngay giây phút đầu tiên ấy, Quinn chợt nghĩ đến đứa con trai đã chết của mình. Rồi cũng bất chợt như vậy, cái ý nghĩ ấy lại biến đi.
Peter Stillman bước vào phòng và ngồi xuống một chiếc ghế bành bọc nhung đỏ kê đối diện với Quinn. Ông không nói một lời nào, làm như không hề biết có Quinn ở đó.
Hình như việc đi từ chỗ này đến chỗ kia đã đòi hỏi toàn bộ sự chú ý của ông, như thể nếu không nghĩ đến chuyện đó thì ông sẽ thành bất động. Quinn chưa thấy ai đi lại kiểu ấy bao giờ, và hắn biết ngay đây chính là người đã nói chuyện với hắn qua điện thoại.
Tấm thân kia hành động giống hệt cái giọng nói nọ: rất máy móc, giật cục, hết chậm lại nhanh, cứng nhắc mà vẫn biểu cảm, như thể toàn bộ hoạt động ấy là không kiểm soát được, không hoàn toàn nghe theo cái ý chí nằm đằng sau nó. Quinn thấy hình như cơ thể của Stillman đã không được sử dụng rất lâu rồi và mọi chức năng của nó đang phải tự học lại hết, cho nên chuyển động cũng trở thành một quá trình có ý thức, mỗi một chuyển động đều phải chia ra thành nhiều động tác cấu thành, cho nên tất cả những gì luôn mềm mại và tức thời đều không còn nữa. Giống như ta nhìn một con rối đang cố bước đi mà không cần giây điều khiển vậy.
Mọi thứ ở Peter Stillman đều trắng. Sơ-mi trắng, cổ mở; quần trắng, giầy trắng, bí-tất trắng. Cộng với nước da nhợt nhạt và mái tóc thưa mỏng như lanh của ông, tất cả thành ra gần như trong suốt, tưởng chừng như có thể nhìn thấu đến cả những tĩnh mạch xanh xanh dưới làn da mặt của ông ta.
Cái màu xanh ấy cũng gần hệt như màu xanh của mắt ông: một thứ xanh da trời lờ lờ như sữa hình như sắp tan thành hỗn chất của trời và mây.
Quinn không thể hình dung nổi mình sẽ nói được một lời nào với con người này. Hình như sự hiện diện của Stillman tự nó là một mệnh lệnh bắt phải im lặng.
Stillman chậm rãi ổn định chỗ ngồi và cuối cùng chuyển sự chú ý của mình sang Quinn. Khi bốn mắt gặp nhau, Quinn đột nhiên cảm thấy Stillman đã trở thành vô hình. Hắn vẫn thấy ông ta đang ngồi trên chiếc ghế đối diện mình, mà hình như lại không có ở đó.
Quinn chợt nghĩ có lẽ Stillman bị mù. Nhưng không, không thể thế được. Người đàn ông kia đang nhìn hắn, thậm chí đang dò xét hắn rất kỹ, và cho dù gương mặt ấy không có tí biểu lộ nhận biết nào, nó vẫn có một cái gì đo hơn hẳn một cái nhìn trống rỗng. Quinn không biết phải làm gì. Hắn ngồi đờ ở đó, nguyên tại chỗ, nhìn lại Stillman. Cứ thế một lúc lâu.
"Xin đừng hỏi gì hết," người đàn ông còn trẻ cuối cùng lên tiếng. "Vâng. Đừng. Cám ơn". Ông ta dừng lại một lúc. "Tôi là Peter Stillman". Tôi nói hoàn toàn theo ý nguyện riêng của mình. Vâng. Đó không phải là tên thật của tôi. Đúng vậy. Tất nhiên, tâm trí tôi không được hoàn toàn như nó muốn. Nhưng chẳng làm sao được. Không làm gì được. Về chuyện ấy. Không được, không được. Không còn được nữa.
Anh ngồi đó và nghĩ: người đang nói với ta đây là ai? Hắn đang thốt ra những lời lẽ gì vậy? Tôi sẽ nói cho anh rõ. Còn nếu không thì tôi sẽ không nói cho anh đâu. Sẽ hoặc không. Tâm trí tôi không được hoàn toàn như nó muốn. Tôi nói hoàn toàn theo ý nguyện riêng của mình. Nhưng tôi sẽ cố.
Sẽ hoặc không. Tôi sẽ cố nói cho anh biết, cho dù tâm trí tôi khiến cho việc này rất khó khăn. Cám ơn anh.
Tên tôi là Peter Stillman. Có thể anh đã nghe về tôi, nhưng có lẽ chưa thì đúng hơn. Không sao. Đó không phải là tên thật của tôi. Tên thật của tôi thì tôi không thể nhớ ra được. Xin lỗi. Mà có nhớ thì cũng chẳng khác gì. Nghĩa là bây giờ thì cũng chẳng khác gì nữa rồi.
Đây là cái người ta gọi là nói. Chắc là thế đấy. Khi lời theo nhau ra, bay vào không trung, sống được một lúc, rồi chết. Lạ, phải không nào? Tôi thì chẳng có ý kiến gì. Không có và không có. Ấy thế mà có những lời ta sẽ phải cần đến. Nhiều lắm. Chắc phải nhiều triệu. Cũng có thể chỉ ba hoặc bốn triệu. Xin lỗi. Nhưng hôm nay tôi khá đấy. Khá hơn nhiều so với mọi khi. Nếu tôi có thể cho anh những lời anh cần, đó sẽ là một thắng lợi vĩ đại. Cám ơn. Cám ơn anh hàng triệu lần.
Trước đây lâu rồi thì có mẹ và bố. Tôi chẳng nhớ ai cả. Họ bảo: mẹ chết rồi. Họ là ai thì tôi không biết. Xin lỗi. Nhưng họ nói vậy đấy.
Thế là không có mẹ. Ha ha. Bây giờ tôi cười như thế đấy, bụng cứ nổ ra những tiếng hỗn loạn. Ha ha ha. Bố to lớn bảo: có khác gì đâu. Với tôi ấy. Nghĩa là với ông ấy nữa. Bố to lớn của những bắp thịt to lớn và những cú đấm thùm thụp thùm thụp thùm thụp. Đừng hỏi gì vội, làm ơn nhé.
Tôi nói những gì họ nói bởi vì tôi có biết gì đâu. Tôi chỉ là Peter Stillman tội nghiệp, thằng bé không thể nhớ được chuyện gì. Ô hô. Có làm gì được đâu. Một thằng ngốc. Xin lỗi. Họ nói, họ nói. Nhưng Peter nhỏ bé tội nghiệp thì nói gì? Không gì cả, không gì cả. Không gì cả nữa rồi.
Có cái này. Bóng tối. Rất tối. Tối thật là tối. Họ bảo đó là căn phòng. Cứ như tôi có thể nói về nó vậy. Bóng tối ấy mà. Cám ơn.
Tối, tối. Họ nói trong chín năm. Không có đến một cái cửa sổ. Tội nghiệp Peter Stillman. Và những cú thùm thụp thùm thụp thùm thụp. Cứt chất thành đống. Nước đái đọng thành hồ. Những cơn chóng mặt. Xin lỗi. Tê dại và trần truồng. Xin lỗi. Không còn vậy nữa rồi.
Vậy là có bóng tối. Tôi nói để anh biết. Có đồ ăn trong bóng tối, vâng, đồ ăn bê bết trong căn phòng tối im lìm. Nó ăn bằng hai tay. Xin lỗi. Nghĩa là Peter ăn bằng hai tay. Và nếu đúng tôi là Peter thì còn khá hơn nhiều. nghĩa là tệ hơn nhiều. Xin lỗi. Tôi là Peter Stillman. Đó không phải là tên thật của tôi. Cám ơn.
(trích tác phẩm Thành phố thủy tinh trong quyển Trần trụi với văn chương - hay The New York Trilogy của nhà văn Paul Auster, Trịnh Lữ dịch, NXB Phụ Nữ và Công ty văn hóa Phương Nam/2007)