![]() |
Bàn tay những con linh trưởng nguyên thủy đã tiến hóa để có thể cầm nắm vật và treo mình trên các cành cây. |
“Một trong những câu hỏi lớn nhất về các loài động vật có xương sống còn chưa có lời giải là, từ đâu và tại sao mà loài linh trưởng tiến hóa”, Jonathan Bloch, một nhà nghiên cứu tại Bảo tàng Cổ sinh vật học, Đại học Michigan (Mỹ), nói.
Theo định nghĩa của các nhà khoa học, những đặc điểm để phân biệt linh trưởng với các loài thú khác là: Bộ não lớn; Có khả năng cầm nắm (và do đó các ngón cái ở tay và chân phải nằm đối diện với các ngón còn lại) cho phép chúng với tới những quả cây treo lơ lửng ở xa; Có khả năng nhảy (giúp chúng băng mình mau lẹ qua các cành cây); Đôi mắt nằm ở vùng trước mặt, chứ không phải nằm ở hai bên (cho phép chúng bắt được côn trùng) và có các móng tay, móng chân thay cho vuốt.
Cho tới nay, những con linh trưởng sớm nhất được biết là euprimate, tìm thấy trong các hóa thạch 55 triệu năm tuổi ở Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á. Euprimate bao gồm có người, khỉ hình người và khỉ. Chính ở đây, các nhà khoa học tự hỏi, điều gì đã xảy ra trong khoảng thời gian 10 triệu năm, giữa thời điểm tuyệt chủng của khủng long (khoảng 65 triệu năm trước) với thời điểm xuất hiện euprimate.
Hóa thạch gần như hoàn hảo của con Carpolestes simpsoni, mới được tìm thấy ở thung lũng Clarks Fork, bang Wyoming (Mỹ) có thể là lời giải cho những câu hỏi này.
![]() |
Ba đốt xương trên ngón cái của Carpolestes simpsoni. |
Carpolestes nặng khoảng 100 gram, có đuôi dài và phần thân dài khoảng 35 cm. Nó là thành viên của một nhóm linh trưởng cổ có tên gọi là plesiadapiforms, sống cách đây khoảng 65-45 triệu năm. Carpolestes mang một vài đặc điểm của linh trưởng hiện đại, như răng rất giống linh trưởng, chuyên hóa cao cho việc ăn hoa, quả và hạt, ngón chân cái đối diện với các ngón còn lại, và trên ngón chân cái có móng. Tuy nhiên, cũng có nhiều nét rất khác, chẳng hạn đôi mắt nó không nằm phía trước mặt, và cấu trúc xương cũng không chuyên hóa cho hoạt động nhảy xa. Do đó, có thể xem Carpolestes như là một nhóm chuyển tiếp giữa linh trưởng cổ và linh trưởng hiện đại euprimate.
Bloch và cộng sự kết luận, Carpolestes đã dành phần lớn thì giờ để bám vào cành cây và ăn hoa quả, chứ không rình mồi và nhảy ra để bắt chúng như với các loài linh trưởng khác. Các tác giả cũng phỏng đoán rằng, trong thời kỳ Paleocene (khoảng 65-60 triệu năm trước), sự đa dạng của các loài hoa, quả, chồi cây và mật hoa đã khiến Carpolestes chuyển sang đời sống trên cây để khai thác nguồn thức ăn dồi dào này, và cũng để tránh cạnh tranh với các loài động vật gặm nhấm khác.
B.H. (theo N.G.)