Phan Châu Trinh (1872 - 1926), tự Tử Cán, hiệu Tây Hồ, Hy Mã, quê ở làng Tây Lộc, huyện Hà Đông (nay là huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam).
Phan Châu Trinh thuở nhỏ nổi tiếng thông minh, học giỏi, đỗ cử nhân năm 1900, đỗ Phó bảng năm 1901. Năm 1903, ông được bổ thừa biện bộ Lễ. Khi làm việc ở kinh đô Huế, ông có dịp tiếp xúc với tân thư của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, sách của các nhà cách mạng dân chủ Âu Tây cùng những kế sách của Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ.
Từ đó, ông bước đầu nhận thức ra con đường cứu nước mới. Ông từ quan, cùng với Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý Cáp bắt đầu cuộc vận động duy tân ở Quảng Nam với ba mục tiêu: khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.
Phan Châu Trinh. Ảnh: Tư liệu
Năm 1908, phong trào đòi giảm sưu thuế nổ ra khắp Trung Kỳ. Phan Châu Trinh bị Pháp bắt giam, đày ra Côn Đảo. Được sự can thiệp của Hội Nhân quyền Pháp, năm 1911, ông được trả tự do và sang Pháp hoạt động.
Tại Pháp, Phan Châu Trinh Trinh viết Trung Kỳ dân biến thỉ mạt ký, nói về cuộc dân biến ở Trung Kỳ năm 1908; Đông Dương chính trị luận, phê phán chính sách cai trị của Pháp ở Đông Dương.
Năm 1925, Phan Châu Trinh về nước. Khi Phan Bội Châu bị Hội đồng đề hình Pháp xử mức án khổ sai chung thân, Phan Châu Trinh gửi điện cho Toàn quyền Đông Dương đề nghị ân xá cho Phan Bội Châu. Tháng 11/1925, Phan Châu Trinh diễn thuyết tại nhà Hội Thanh niên Sài Gòn.
Ngày 24/3/1926, Phan Châu Trinh qua đời ở tuổi 54. Đám tang và lễ truy điệu ông trở thành cuộc vận động ái quốc rộng lớn ở Sài Gòn.
Ở Quảng Nam hiện có đại học mang tên Phan Châu Trinh.