Trong bối cảnh phong trào chống quấy rối tình dục #MeToo đang rất phổ biến, nhiều vụ việc quấy rối tình dục tại nơi làm việc được đưa ra ánh sáng. Các công ty ở nước ngoài, đặc biệt là Mỹ, đều rất cẩn trọng trong vấn đề này. Không chỉ có kẻ trực tiếp thực hiện hành vi quấy rối bị ảnh hưởng, đôi khi chính công ty có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý khi nhân viên của họ bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc.
Suffolknewsherald đưa tin, tháng 8 vừa qua, công ty café Massimo Zanetti ở Suffolk, bang Virginia (Mỹ) đã phải hòa giải và bồi thường khoản tiền 65.000 USD cho nhân viên nữ từng làm việc ở đây vì hành vi quấy rối tình dục của đồng nghiệp.
Cụ thể, vào tháng 3, sau khi nữ nhân viên nhiều lần phản ánh về người đồng nghiệp liên tục quấy rối mình, công ty không giải quyết mà còn sa thải cô với lý do hiệu suất làm việc kém. Cô quyết định khởi kiện vì cho rằng công ty đã không tạo ra được môi trường làm việc lành mạnh cho nhân viên.
Để giảm rủi ro bị khởi kiện vì trường hợp tương tự, một số công ty nước ngoài đang nghiên cứu và áp dụng chính sách “hợp đồng tình cảm nơi làm việc”. Trước kia, các công ty thường có chính sách cấm đoán mọi quan hệ tình cảm giữa các nhân viên trong công ty. Tuy nhiên, lệnh cấm này ít khi phát huy được hiệu quả mong đợi. Chính sách cấm tuyệt đối thậm chí có thể phản tác dụng, khiến nhân viên phải yêu trong bí mật. Quan hệ giữa hai bên chỉ được sáng tỏ sau khi chuyện đã chấm dứt. Khi ấy, một hoặc cả hai bên có thể đều cáo buộc mình đã bị quấy rối hoặc đã bị ép buộc mối quan hệ, dẫn tới kiện tụng.
Để hạn chế hiện tượng này, công ty thường đặt ra chính sách xoay quanh “hợp đồng tình cảm nơi làm việc”. Nội dung thường quy định: Nếu giữa đồng nghiệp nảy sinh tình cảm với nhau, họ phải thông báo về mối quan hệ này với chủ lao động và phải ký kết hợp đồng tình cảm.
Hợp đồng dạng này thường yêu cầu các bên không được để tình cảm ảnh hưởng tới công việc. Chủ lao động có quyền xử phạt với những hành vi tình cảm không đúng mực, quá thân mật tại nơi làm việc tới thiên vị trong công việc. Hơn nữa, hợp đồng có thể đặt ra các bước xử lý của chủ lao động để bảo đảm môi trường làm việc hiệu quả như thuyên chuyển nhân viên, đề nghị làm công việc khác hoặc thay đổi lịch làm việc.
Thông qua chế định hợp đồng tình cảm nơi làm việc, chủ lao động có thể giảm thiểu trách nhiệm pháp lý của công ty trong khoảng thời gian từ khi hai bên có tình cảm với nhau cho tới khi ký kết hợp đồng vì đây sẽ là bằng chứng chứng minh mối quan hệ ấy là dựa trên sự tự nguyện và cả hai bên đều mong muốn.
Các bên có thể chia tay mà không sợ bị trả thù nhờ hợp đồng tình cảm. |
Hợp đồng là chứng cứ cho thấy các bên có liên quan đều đã hiểu rõ về đường lối công ty, và có thể tự do chấm dứt mối quan hệ mà không sợ bị trả thù (trong trường hợp quan hệ giữa sếp – nhân viên). Nhân viên ký kết hợp đồng tình cảm nơi làm việc còn được yêu cầu có phản ứng chuyên nghiệp khi mối quan hệ chấm dứt và phải thông báo cho Phòng Nhân sự của công ty.
Theo Bostonglobe, các công ty lớn thường quan tâm tới vấn đề hợp đồng tình cảm nơi làm việc hơn công ty nhỏ. Nhân viên ở Facebook và Google chỉ được phép mời đồng nghiệp đi chơi một lần, nếu bị từ chối sẽ không được phép hỏi lại.
Đương nhiên, tồn tại hợp đồng tình cảm giữa các bên liên quan không có nghĩa là công ty không phải chịu bất cứ trách nhiệm pháp lý. Người khởi kiện có thể cáo buộc mình đã bị ép buộc ký hợp đồng ngay từ đầu. Chính sách hợp đồng tình cảm nơi làm việc cũng không có thể giải quyết mọi vấn đề. Nhiều người có thể muốn giữ bí mật về quan hệ tình cảm của mình. Ví dụ, cặp đôi đồng tính có thể không muốn công khai quan hệ vì sợ bị công ty hoặc đồng nghiệp lên đánh giá, lên án.
Không phải chỉ đơn thuần là cách bảo vệ công ty, việc ký kết hợp đồng tình cảm nơi làm việc cũng là cách cá nhân bảo vệ chính mình. Chẳng hạn như nếu quan hệ tình cảm chấm dứt không được suôn sẻ, một người có thể khởi kiện đối phương vì hành vi quấy rối tình dục. Khi đó, bản hợp đồng tình cảm nơi làm việc có thể giúp chứng minh quan hệ đôi bên hoàn toàn là tự nguyện.