Theo Điều 2 Nghị định 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24/07/2009: “Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác”.
Điều này cũng quy định: Thừa phát lại là người được Nhà nước bổ nhiệm để làm các công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi bằng và các công việc khác theo quy định của Nghị định và pháp luật có liên quan.
Bên cạnh đó, Điều 25 Nghị định 61/2009/NĐ-CP quy định về thẩm quyền, phạm vi lập vi bằng vi như sau:
“1. Thừa phát lại có quyền lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi theo yêu cầu của đương sự, trừ các trường hợp quy định tại Điều 6 của Nghị định này; các trường hợp vi phạm quy định về bảo đảm an ninh, quốc phòng; vi phạm bí mật đời tư theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật dân sự; các trường hợp thuộc thẩm quyền công chứng của tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
2. Thừa phát lại được lập vi bằng các sự kiện, hành vi xảy ra trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại”.
Giá trị pháp lý của vi bằng
Theo quy định tại Điều 7 Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/02/2014:
“Vi bằng do Thừa phát lại lập là nguồn chứng cứ để tòa án xem xét khi giải quyết vụ án và là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình đánh giá, xem xét giá trị chứng cứ của vi bằng, nếu xét thấy cần thiết, Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân có thể triệu tập Thừa phát lại để làm rõ tính xác thực của vi bằng”.
Như vậy, theo các quy định vừa trích dẫn ở trên, việc bạn lập vi bằng về việc chuyển nhượng mảnh đất khi chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ xác nhận việc có giao kết về việc chuyển nhượng giữa hai bên tại thời điểm lập.
Khi làm thủ tục sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hai bên vẫn phải lập hợp đồng chuyển nhượng có công chứng của một tổ chức công chứng tại địa phương theo quy định bắt buộc của Điều 122 Luật nhà ở 2014 chứ không thể dựa vào vi bằng đã lập trước đó vì vi bằng chỉ có giá trị xác nhận việc có giao kết về việc chuyển nhượng và được coi là nguồn chứng cứ tại Tòa án nếu có tranh chấp xảy ra trước khi các bên lập hợp đồng chuyển nhượng tại tổ chức công chứng.
Luật sư, thạc sỹ Phạm Thanh Bình
Công ty Luật Bảo Ngọc, Hà Nội