Chiều 14/9, TAND TP HCM chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn - Công ty Bưu chính viễn thông Chi nhánh TP HCM (thuộc Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam - VNPT), buộc bị đơn Sỹ Truyền Hoàng Ngân (26 tuổi) trả hơn 1,1 tỷ đồng tiền cước.
Theo HĐXX, hợp đồng cung cấp sử dụng dịch vụ viễn thông được ký giữa VNPT và Ngân là có hiệu lực pháp luật. Hai bên đều công nhận, ngoài các nội dung in sẵn còn có nội dung "mở dịch vụ gọi quốc tế và chuyển vùng quốc tế (roaming)".
"Hợp đồng này cho thấy ý chí của bị đơn yêu cầu công ty cung cấp dịch vụ gọi quốc tế, gọi chuyển vùng quốc tế và đã được phía công ty đáp ứng. Bà Ngân cho rằng hợp đồng không rõ ràng là không có cơ sở", bản án nêu.
Tòa cũng cho rằng, kết quả giám định các cuộc gọi được thực hiện đúng pháp luật, số thuê bao của Ngân đã đăng ký dịch vụ chuyển tiếp cuộc gọi và đã nhận được nhiều cuộc gọi trong cùng một thời gian, tổng đài đã chuyển tiếp toàn bộ các cuộc gọi đến tổng đài hoặc thuê bao khác và ghi nhận toàn bộ hơn 4.300 cuộc gọi, là chính xác.
Cấp sơ thẩm không làm rõ hai loại dịch vụ gọi quốc tế và chuyển vùng quốc tế là khác nhau. Cước phát sinh không phải là từ dịch vụ chuyển vùng quốc tế mà là dịch vụ gọi quốc tế. Thời điểm ký hợp đồng, dịch vụ chuyển vùng quốc tế được mở đồng thời với dịch vụ gọi quốc tế, không phải đăng ký.
Ngay cả trong trường hợp bà Ngân không đăng ký chuyển vùng quốc tế thì vẫn phát sinh cước. Việc ký quỹ 5 triệu đồng là để thực hiện dịch vụ chuyển vùng quốc tế.
Án sơ thẩm cho rằng số tiền này dùng để ký quỹ gọi chuyển vùng quốc tế là không có cơ sở. Như vậy, khi đăng ký dịch vụ quốc tế người sử dụng phải biết và chịu trách nhiệm. Đây là ý định của bà Ngân nên việc xác định công ty viễn thông thiếu trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin là không có cơ sở.
"Tòa sơ thẩm cho rằng hợp đồng ký kết với nhau có nội dung không rõ ràng… thì bên đưa ra hợp đồng phải chịu trách nhiệm, là không có căn cứ", bản án nêu.
Theo nội dung vụ án, đầu tháng 7/2013, Hoàng Ngân ký hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ bưu chính viễn thông với chi nhánh của Viễn thông TP HCM (thuộc Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam - VNPT).
Nhà mạng cung cấp cho Ngân sim điện thoại thuê bao trả sau, bao gồm dịch vụ gọi trong nước, có thể gọi chuyển vùng quốc tế không giới hạn bởi vị trí của máy gọi, vị trí máy nhận cuộc gọi, loại máy… Cô gái phải ký quỹ 5 triệu đồng, khi nào không sử dụng dịch vụ này nữa sẽ được nhận lại tiền.
Trong năm ngày hòa mạng (1-6/7/2013) Ngân gọi và sử dụng dịch vụ chuyển vùng quốc tế làm phát sinh tiền cước phí cao bất thường - 1,1 tỷ đồng. Viễn thông TP HCM thông báo và yêu cầu cô thanh toán. Không đồng ý trả vì mức phí quá cao, Ngân bị VNPT khởi kiện ra tòa.
Cô cho rằng, VNPT đã giải thích nội dung trong hợp đồng không đúng với nội dung hai bên đã giao kết. Thuê bao của cô không có việc gọi quốc tế mà không bị giới hạn bởi vị trí máy gọi cũng như máy nhận. Hơn nữa, 5 triệu đồng ký quỹ được giao dịch viên giải thích là "ngưỡng cước phí tối đa" - tức là cước phí quá số tiền này sẽ bị chặn cuộc gọi.
Quá trình giải quyết vụ án, cô gái thừa nhận đã cho người quen (quốc tịch Pakistan) sử dụng sim điện thoại này nhưng giờ không thể liên lạc người đó. Cô tố cáo với Công an TP HCM nhưng chưa được phản hồi.
Hồi tháng 4/2014, TAND quận 11 xử sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của VNPT. Tòa cho rằng trong việc giao kết hợp đồng VNPT là bên mạnh thế, hiểu biết hơn khách hàng về những vấn đề liên quan đến dịch vụ viễn thông. Phía nguyên đơn cũng là bên soạn thảo hợp đồng, nên việc giải thích nội dung thỏa thuận phải theo hướng có lợi cho khách hàng.
Theo tòa, trong 1,1 tỷ đồng cước phí có gần một tỷ là "cước chuyển vùng cuộc gọi", không phải cước gọi quốc tế. Nhưng VNPT không cung cấp được các số máy đã gọi cho thuê bao của khách hàng để thực hiện dịch vụ chuyển cuộc gọi.
Việc ký quỹ 5 triệu đồng phải được hiểu là "khi tiền cước phí sử dụng dịch vụ roaming vượt quá 5 triệu đồng thì Viễn thông TP HCM phải chặn cuộc gọi". Do đơn vị cung cấp dịch vụ không làm thế, nên lỗi thuộc về VNPT, phải chịu hậu quả; còn khách hàng phải chịu tiền cước phí trong giới hạn đã ký kết.
Không đồng ý với phán quyết này, VNPT kháng cáo.