Công trình Thuỷ điện Sơn La nằm trên thượng lưu hồ Hoà Bình, trong vùng có động đất thường xuyên và mạnh nhất Việt Nam. Hồ chứa nước lớn, cột nước cao, lưu lượng lũ lớn. Hồ Sơn La và hồ Hoà Bình đều nằm trên thượng lưu đồng bằng Bắc Bộ, là nơi có nhiều trung tâm đô thị, công nghiệp, dân cư và thủ đô Hà Nội. Đây là điểm khác biệt so với các đập nước lớn trên thế giới. Nếu xuất hiện những chấn động dẫn tới hiện tượng vỡ đập dây chuyền, thì sẽ gây thảm hoạ khủng khiếp. Với những tính chất trên, mức độ an toàn phải đặt ở mức "siêu cấp".
Tuy nhiên, trong báo cáo số 05/HĐTĐSL của Hội đồng thẩm định Nhà nước không có mục riêng về vấn đề này. Chỉ thấy nêu "mức thảm hoạ của hồ Sơn La cao là lớn hơn Sơn La thấp". Nhưng theo phân tích của Tiến sĩ Vũ Minh Mão, nếu đập Sơn La cao 265 m bị vỡ thì việc đập Hoà Bình cũng sẽ vỡ do sóng gián đoạn là điều không thể tránh khỏi. Vì thế cần phải có những giải pháp khắc phục những tình huống xấu nhất có thể xảy ra.
Nguy cơ gây thảm hoạ môi trường
Hồ chứa nước Thủy điện Sơn La sẽ làm ngập một diện tích đất lớn (Sơn La cao khoảng 40.600 ha, Sơn La thấp khoảng 18.650 ha), kéo theo các tổn thất về rừng, đa dạng sinh học, khoáng sản, di sản văn hoá, lịch sử và hạ tầng cơ sở hiện có. Diện tích rừng bị ngập khoảng 2.500 - 3.100 ha, chiếm khoảng 7,02 - 11,2 % tổng diện tích đất ngập. Hệ thực vật ở vùng có mức đa dạng sinh học trung bình (11 loài/50ha). Hệ động vật có 44 loài được liệt vào loại quý hiếm, có giá trị kinh tế, nhưng số lượng cá thể còn rất ít. Do bị ngập, địa bàn cư trú của một số động vật hoang dã sẽ bị thu hẹp hoặc mất hẳn, thành phần thuỷ sinh có xu hướng giảm về số loài. Việc tái định cư có thể tạo điều kiện cho phát triển lâm nghiệp vùng ven hồ và có thể thu hút các giống loài quay trở lại, nhưng những tác động tiêu cực tới đa dạng sinh học là rất lớn.
Sự hình thành hồ chứa sẽ ảnh hưởng đến số lượng lớn dân cư, tác động tới quy hoạch lãnh thổ, làm nảy sinh những vấn đề môi trường đô thị như: cấp nước, vệ sinh, ô nhiễm không khí, đất nước, rác thải, nhà ở và các dịch vụ khác...
Hàng loạt vấn đề môi trường nghiêm trọng nảy sinh trong quá trình chuẩn bị và xây dựng công trình như: ô nhiễm, suy thoái môi trường không khí do nồng độ bụi tăng vượt tiêu chuẩn cho phép từ 8-300 lần, tải lượng khí độc (CO, NO, SO2,...) lên tới vài nghìn mg/m3/ngày đêm. Lượng chất rắn lơ lửng trong nước lớn, ô nhiễm dầu mỡ, nước thải sản xuất từ các xưởng vượt vài chục lần so với chuẩn cho phép.
Thay đổi hệ sinh thái
Do tác động điều hoà dòng chảy giữa mùa lũ và mùa cạn, chế độ thuỷ văn và thuỷ lực của dòng sông sẽ thay đổi rất khó xác định, lưu lượng điều tiết sau khi đỉnh lũ qua đi sẽ làm cho mực nước sông duy trì ở mức cao lâu hơn, gây tác hại đối với đê sông. Các bãi ven sông cũng ngập lâu hơn, ảnh hưởng tới sản xuất và sinh hoạt của cụm cư dân ngoài đê...
Trong mùa cạn, lượng nước tăng lên hơn hai lần so với hiện nay, làm xói các bìa và lòng sông, mất các diện tích canh tác của các bãi hai bờ sông... Thực tế cho thấy, dùng hồ nước để cắt lũ, nhưng khi vượt quá một giới hạn nào đó sẽ xảy ra nghịch lý: cắt được lũ càng lớn, hồ có dung tích lớn sẽ tạo ra một cơn lũ càng to hơn nữa. Ngoài ra, Thuỷ điện Sơn La sẽ gây ra những biến động làm thay đổi hệ sinh thái ở hạ du đến cửa sông ven bờ biển, như sự xâm nhập mặn, sự di cư các loài cá, sự thay đổi về chất lượng và mực nước ngầm, ảnh hưởng tới rừng ngập mặn ven bờ, các rạn san hô...
Theo Tiến sĩ Vũ Minh Mão, xu hướng của thế giới hiện nay, nhất là các nước phát triển, là giảm dần việc xây dựng các nhà máy thuỷ điện và hồ chứa nước gây ngập một vùng rộng lớn, ảnh hưởng tới nhiều khu vực dân cư. Điều này tác động đến môi trường lâu dài, vì vậy việc cân nhắc, tính toán ra phương pháp tối ưu là hết sức cần thiết.
(Theo Khoa học & Phát triển)