From: "Quan Nguyen"
Newsgroups: Webmaster
Sent: Thursday, January 30, 2003 11:47 AM
Subject: Gui Ban Phap luat
Điều khiến tôi thích thú là mặc dù rất khác về cách suy nghĩ, song cả 2 ý kiến cùng chia sẻ mối băn khoăn: chính sách pháp luật nào có thể có lợi nhất cho xã hội ta trong việc quản lý các hoạt động kinh doanh. Sự khác biệt ở chỗ mỗi người chọn 1 hướng đi riêng. Tôi nghĩ rằng dùng cơ chế pháp luật dân sự để quản lý hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ có lợi cho xã hội, đồng thời giúp nâng hiệu quả quản lý của các doanh nghiệp trong nước. Bạn Cương nghĩ rằng “không có các biện pháp trừng phạt về mặt nhân thân (tức bỏ tù, tước quyền công dân hoặc các biện pháp khác) thì khó có điều kiện đủ mạnh để ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao. Nếu dùng chế tài dân sự (tức dùng tiền) thay thế, thì pháp luật sẽ ủng hộ sai phạm của những kẻ giàu chứ không phải chỗ dựa của toàn dân”.
Trước hết, để tránh cảnh người bình cá, người luận chim, tôi xin phép được xác định lại chủ đề tranh luận và chỉ ra một số diễn dịch và trích đoạn sai của bạn Cương. Chủ đề tôi đề cập trong thư trước là chính sách pháp luật đối với các sai phạm về quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu mở rộng ra thành “các hành vi vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao” (ví dụ: cướp của, giết người) thì chính sách pháp luật sẽ khác, nằm ngoài ý kiến của tôi. Thư trước, tôi đề cập 2 vấn đề, trong đó có đặt ra là liệu chính sách hình sự có giúp nâng hiệu quả quản lý của các doanh nghiệp trong nước? Tức là đánh giá hiệu quả của chính sách dựa trên tác động vào đối tượng bị điều chỉnh (doanh nghiệp). Bạn Cương không đồng ý với tôi trên cả 2 vấn đề. Không may, khi lập lại vấn đề thứ 2, bạn Cương diễn dịch thành: “(liệu dùng chính sách hình sự) có giúp nâng hiệu quả quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp hay không?”. Tức là bàn về lợi ích của chủ thể quản lý (nhà nước). Nhà nước và doanh nghiệp trong trường hợp này là 2 khái niệm khác nhau. Nâng hiệu quả quản lý của doanh nghiệp cũng khác với nâng hiệu quả quản lý của nhà nước. Như vậy, bạn Cương đi lạc sang vấn đề khác mà tôi chưa đề cập.
Khi bất đồng với nhận định của tôi rằng thực tiễn trong thời gian qua các biện pháp hình sự thất bại trong việc tạo ra cơ chế bù đắp các thiệt hại xã hội do vi phạm các qui định về quản lý doanh nghiệp gây ra, bạn Cương trích dẫn: “chính sách hình sự không mang lại hiệu quả nào trong việc điều chỉnh các hành vi buôn lậu, trốn thuế”, và diễn dịch “hay nói cách khác pháp luật hình sự không có chỗ đứng nào trong việc xử lý các vụ việc kiểu vụ Đông Nam”. Tiếc rằng trích dẫn của bạn Cương không có trong phần viết của tôi, và diễn dịch cũng đi quá xa những kết luận của tôi. Khi tranh luận mà mỗi người bàn một vấn đề thì sẽ không thể đi tới kết luận gì.
Trong các đánh giá của bạn Cương, có rất nhiều điểm cần bàn. Nhưng do điều kiện công việc chưa cho phép, tôi chỉ xin hạn chế vào 2 điểm mà tôi cho rằng quan trọng dẫn đến những ý kiến khác biệt giữa tôi và bạn Cương: thiệt hại xã hội do quản lý kinh doanh của doanh nghiệp gây ra, và vai trò của cơ chế dân sự nhằm giảm các thiệt hại đó.
Về đánh giá thiệt hại xã hội do các vi phạm qui định quản lý kinh doanh của doanh nghiệp gây ra, bạn Cương cho rằng “cứ khi nào đã có hành vi vi phạm pháp luật thì nói chung đã có thiệt hại cho xã hội (hoặc chí ít cũng có nguy cơ gây thiệt hại cho xã hội)”. Thực tiễn chứng minh lập luận này không đúng. Ví dụ: trước khi chúng ta có chủ trương giao khoán ruộng cho nông dân, hành vi giao khoán ruộng cho một số nông dân ở Thái Bình rõ ràng là trái pháp luật về quản lý kinh tế, nhưng thực tiễn hiện nay cho thấy việc đó không gây thiệt hại cho xã hội, mà ngược lại. Như vậy, trong lĩnh vực quản lý kinh doanh, pháp luật cũng có thể tạo ra cơ chế không tối ưu cho lợi ích xã hội. Chúng ta muốn phát triển kinh tế, cho nên hiệu quả kinh tế là một trong các thước đo lợi ích xã hội.
Nếu chúng ta xác định xã hội là tập hợp của mọi thành viên, cả cá nhân, cả pháp nhân, trong xã hội đó (trừ những thành viên đã có bản án của tòa loại ra khỏi xã hội), thì chúng ta có thể xác định rằng xã hội chịu thiệt hại khi một phần lợi ích của toàn xã hội bị lấy mất. Bàn riêng trong lĩnh vực quản lý kinh doanh thì lợi ích xã hội sẽ chủ yếu mang tính chất lợi ích kinh tế. Bởi nếu không, các đơn vị kinh doanh sẽ phải tổ chức theo hình thức khác (ví dụ, hội từ thiện). Trong các lĩnh vực khác như hình sự, cách xác định thiệt hại xã hội có thể đã rõ. Ví dụ, việc giết người vô tội là tước khỏi xã hội một con người, vốn là tài sản quí giá của xã hội. Thiệt hại xã hội đã rõ. Nhưng trong lĩnh vực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, báo chí gần đây cũng đưa tin nhiều trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cho rằng hoạt động của doanh nghiệp là sai, nhưng không xác định được thiệt hại xã hội, nên lúng túng trong cách xử phạt. Ví dụ: Vụ phá sóng vô tuyến giữa 2 hãng taxi ở Hà Nội gần đây.
Trong chính sách pháp luật về quản lý hoạt động kinh doanh, khi kết luận một doanh nghiệp gây thiệt hại cho xã hội để làm cơ sơ cho các biện pháp trừng phạt, răn đe thì cần phải chỉ ra được mức độ thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu. Khi nghĩ đến các biểu tượng của luật pháp, người ta thường nghĩ đến cán cân công lý. Tức là về bản chất, luật pháp có yếu tố công bằng, mức hình phạt cần được tính toán tương ứng với mức thiệt hại. Việc xác định mức thiệt hại cho xã hội không thể chỉ dựa trên khối lượng tài sản mà doanh nghiệp thu được từ hành vi vi phạm qui định về quản lý kinh doanh. Ví dụ: Đông Nam bán điện thoại không có bảo hành cao hơn giá trị thực. Đây là hành vi lừa dối khách hàng. Tài sản chuyển dịch bất công từ người tiêu dùng vào túi những người quản lý Đông Nam rõ ràng gây thiệt hại cho những người tiêu dùng, và do vậy người tiêu dùng có quyền đòi bồi thường thiệt hại theo nguyên tắc luật dân sự. Nhưng nếu xác định số tài sản của người tiêu dùng mà Đông Nam chiếm đoạt là mức thiệt hại về lợi ích xã hội thì sai lầm. Đông Nam cũng là 1 thành viên của xã hội. Tay móc tiền từ túi bên trái cho sang túi bên phải không làm cho người có cánh tay đó nghèo đi.
Theo ý kiến cá nhân tôi, thiệt hại kinh tế cho xã hội từ hoạt động quản lý kinh doanh của doanh nghiệp có thể được xác định dựa trên hiệu quả doanh nghiệp sử dụng các nguồn tài nguyên xã hội. Chúng ta công nhận học thuyết kinh tế của Marx rằng lao động là nguồn gốc của giá trị thặng dư khi được kết hợp với tư liệu sản xuất và nguyên liệu sản xuất. Chúng ta không bác bỏ quan điểm kinh tế của Adam Smith rằng thương mại giúp di chuyển các nguồn tài nguyên trong xã hội giúp việc sử dụng các nguồn tài nguyên đó đạt hiệu suất cao nhất. Và ông cha ta cũng nhận thức được nguyên tắc đó trong câu tục ngữ “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Như vậy, lợi ích xã hội do thương mại tạo ra là ở giá trị thặng dư tăng thêm do việc dịch chuyển hợp lý các nguồn tài nguyên, và thương mại được chia sẻ một phần giá trị thặng dư do sức lao động tạo ra.
Khi ban hành luật, các nhà làm luật hướng đến lợi ích xã hội. Do vậy, có thể giả định rằng các qui định về quản lý kinh doanh được thiết kế nhằm đảm bảo các nguồn tài nguyên xã hội được chuyển dịch ở mức độ hợp lý nhất định để đảm bảo xã hội có lợi hơn từ việc sử dụng các nguồn tài nguyên đó. Giả định này có thể sai nếu kỹ thuật làm luật quá thấp. Trong thực tế nước ta, “mức độ hợp lý” được xác định trên nhiều tiêu chí. Nhưng một trong các tiêu chí đó chắc chắn là lợi ích kinh tế, do vậy chúng ta khuyến khích thành lập doanh nghiệp, khuyến khích kinh doanh.
Lập luận trên có thể giúp chúng ta xác định được mức thiệt hại cho lợi ích kinh tế của xã hội do các hành vi vi phạm qui định quản lý kinh doanh gây ra. Đó chính là khoản giá trị thặng dư mà xã hội đáng lẽ được hưởng nếu tài nguyên được di chuyển hợp lý, bị giảm đi do doanh nghiệp sử dụng tài nguyên xã hội kém hiệu quả hơn do vi phạm qui định về quản lý kinh tế. Khi này, mức thiệt hại cho xã hội sẽ là cơ sở để áp dụng các biện pháp hình sự nhằm răn đe, phòng ngừa.
Liệu chính sách dân sự có thể được thiết kế để giúp bù đắp các thiệt hại xã hội do vi phạm các qui định quản lý kinh doanh hay không? Bạn Cương cho rằng cả chính sách hình sự lẫn chính sách dân sự đều không thể tạo ra cơ chế bù đắp thiệt hại xã hội, bởi vì: “…không chỉ biện pháp hình sự không được thiết kế để bù đắp thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu do hành vi vi phạm pháp luật gây ra mà bản thân biện pháp dân sự (hay chế tài dân sự, kể cả biện pháp bồi thường của pháp luật dân sự) cũng không được thiết kế để bù đắp thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu do hành vi vi phạm pháp luật gây ra”. Ngay bản thân các chế tài dân sự cũng chỉ để phân bổ lại thiệt hại trong xã hội và trả lời câu hỏi ai nên gánh chịu thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật gây ra (kẻ gây thiệt hại cho xã hội hay người đã bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật gây ra) do vậy “…hoàn toàn không có cái gọi là khôi phục thiệt hại cho xã hội bởi khi đã có hành vi gây thiệt hại cho xã hội thì thiệt hại cho xã hội đã xảy ra rồi làm sao có thể khôi phục lại được”.
Bỏ qua các trích dẫn sai, tôi rất thích thú với cách lập luận của bạn Cương. Có điều, phải chỉ ra rằng các lập luận của bạn Cương đặt lên trên khái niệm thiệt hại xã hội, nhưng bạn Cương lại không đưa ra được cơ sở để xác định khái niệm thiệt hại xã hội từ các vi phạm hoạt động quản lý kinh doanh của doanh nghiệp như đã bàn ở phần trên.
Tôi cho rằng thực tiễn trong thời gian qua các biện pháp hình sự thất bại trong việc tạo ra cơ chế bù đắp thiệt hại xã hội, nhưng chính sách luật dân sự có thể được thiết kế để tạo ra cơ chế bù đắp các thiệt hại từ các sai phạm trong quản lý kinh doanh gây ra. Từ việc xác định thiệt hại cho xã hội như đã bàn ở phần trên, chính sách dân sự có thể được thiết kế để giảm thiệt hại kinh tế cho xã hội trong 3 trường hợp. Trong trường hợp doanh nghiệp sử dụng tài nguyên xã hội vi phạm các quy định quản lý kinh tế khiến vừa gây thiệt hại lợi ích xã hội, vừa tạo sự bất công về tài sản cho một nhóm người trong xã hội, nếu áp dụng biện pháp hình sự (như bỏ tù lãnh đạo doanh nghiệp, tịch thu xung công tài sản), nhóm người bị bất công về tài sản (trong trường hợp Đông Nam là người mua hàng không có bảo hành cao hơn giá trị thực) vẫn tiếp tục chịu sự bất công. Hơn nữa, việc sung công tài sản doanh nghiệp sẽ giống như một khoản thuế đánh vào những người bị bất công về tài sản từ hoạt động của doanh nghiệp. Việc “đánh thuế” này vi phạm cả nguyên tắc của luật là công bằng lẫn mục đích của thuế là điều chỉnh thu nhập. Người mất tiền vẫn cứ mất tiền, và thực tế cho thấy nhiều người trong số họ không đủ tiêu chuẩn để được điều chỉnh thu nhập. Cơ chế dân sự cho phép nhóm người bị bất công về tài sản thu hồi lại tài sản của họ từ doanh nghiệp, chính là làm giảm sự bất công đó. Nhà nước có thể dùng tiền sung công đầu tư, nhưng hiệu suất thường thấp hơn việc người dân tự đầu tư (nghiên cứu kinh tế cho thấy khu vực dân sinh đạt hiệu suất cao hơn khu vực nhà nước).
Trong trường hợp hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vi phạm các quy định quản lý kinh tế, không gây thiệt hại lợi ích xã hội (do các chuyển dịch tài nguyên nâng cao hiệu suất giá trị thặng dư hơn là quy định quản lý kinh tế, đã từng xảy trong trường hợp giao khoán ruộng cho nông dân ở Thái Bình), nhưng tạo sự bất công về tài sản cho một nhóm người trong xã hội, cơ chế dân sự giúp nhóm người bị bất công về tài sản đòi bù đắp phần thiệt hại.
Trong trường hợp doanh nghiệp chuyển dịch tài sản lãng phí, hiệu suất khai thác tài nguyên thấp hơn mức hiệu suất ban đầu (ví dụ: vụ Ngân hàng Việt Hoa, những người gửi tiền có thể dùng tiền đó đầu tư kinh doanh, tạo ra lợi ích cho xã hội, nhưng không may gửi tiền vào ngân hàng để lãnh đạo ngân hàng chiếm đoạt, dùng mua xe, ăn nhậu là các hành vi sử dụng tài nguyên với hiệu suất thấp), thì cơ chế dân sự có thể khôi phục lại hiệu suất sử dụng tài sản ban đầu (ví dụ: người gửi tiền lấy lại tiền gửi để đầu tư kinh doanh).
Rất tiếc rằng bạn Cương chủ trương trừng phạt nhân thân là biện pháp hiệu quả nhất, và cho rằng các biện pháp dân sự dùng tiền sẽ tạo bất công cho người nghèo, bởi vì theo bạn Cương: “... khi không có các biện pháp trừng phạt về mặt nhân thân, khó có thể có điều kiện đủ mạnh để ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao và đặc biệt, nếu dùng chế tài dân sự (tức dùng tiền) thay thế cho chế tài có tính nhân thân trong luật hình sự thì pháp luật sẽ là pháp luật ủng hộ hành vi vi phạm của những kẻ giàu chứ không phải là chỗ dựa của toàn dân”. Để chứng minh, bạn Cương đưa ra chuyện “luật dân sự thời cổ La Mã có quy định rằng người nào tát người khác thì bị buộc bồi thường một đồng tiền vàng cho người bị tát. Có kẻ nhà giàu, chơi ngông đã đi dọc phố tát cho mỗi người một cái và cứ sau một cái tát anh ta trả người bị tát một đồng tiền vàng”. Theo bạn Cương, câu chuyện này cho thấy chính sách dân sự dùng tiền dẫn đến bất công và ai học luật cũng cần phải biết. Tôi rất thích câu chuyện này, mặc dù thú thật đây là lần đầu tiên tôi được nghe kể. Nhân tiện, tôi cũng xin kể một thực tế trong pháp luật thời cổ La Mã mà tôi hy vọng những người học luật cũng biết, đó là chế độ nô lệ thời này rất hà khắc, người nô lệ chỉ làm mất một đồng tiền vàng của chủ là có thể bị mang ra giết, đánh, hoặc đưa ra đấu trường đấu đến chết với các nô lệ khác. Tôi hy vọng bạn Cương cũng thấy vậy là bất công. Như vậy, không chỉ có cơ chế dùng tiền, mà cơ chế trừng phạt cũng có thể tạo sự bất công nếu sử dụng không đúng.
Do điều kiện hạn chế, tôi chỉ xin đề cập 2 vấn đề, mặc dù các vấn đề khác mà bạn Cương nêu đều rất hay. Hy vọng các bạn quan tâm khác sẽ có ý kiến làm rõ.
Cuối cùng, để tránh những sai sót trong cách diễn dịch của bạn đọc, tôi xin nói rõ rằng những suy nghĩ cá nhân của tôi về chính sách pháp luật trong quản lý hoạt động kinh doanh chỉ nêu Đông Nam như là một ví dụ về vi phạm quy định quản lý kinh doanh. Tất cả không áp dụng vào, cũng không nhằm bào chữa cho trường hợp Đông Nam bởi những thông tin tôi có được về trường hợp Đông Nam không đầy đủ. Vào thời điểm tôi viết, việc điều tra các hoạt động sai phạm ở Đông Nam vẫn đang tiếp tục, và các bài báo tôi đọc được chỉ phản ánh một vài khía cạnh của vụ việc.
Tôi rất cám ơn Tòa soạn đã tạo điều kiện cho những trao đổi ý kiến hấp dẫn này. Vì hy vọng việc nêu ý kiến cá nhân của tôi cũng có thể góp thêm vào sự sống động của diễn đàn Bạn đọc viết của VnExpress.
Nguyễn Hiền Quân
Nghiên cứu sinh tiến sĩ luật
Đại học Melbourne.