From:
To: phapluat@vnexpress.net
Sent: Tuesday, February 04, 2003 6:41 PM
Subject: Lai ban ve bien phap xu ly doanh nghiep vi pham phap luat
Tôi có theo dõi bài viết của bạn Nguyễn Hiền Quân, Nguyễn Văn Cương và một số bạn khác xung quanh chủ đề chính sách pháp luật nào cho doanh nghiệp vi phạm pháp luật, tôi thấy nổi lên một số vấn đề cần trao đổi thêm.
1. Trước hết, để bạn đọc tiện theo dõi, tôi xin tóm tắt lại quan điểm của hai bạn Quân và Cương:
- Bạn Quân nêu quan điểm cá nhân của mình rằng kết quả xử lý các vụ án kinh tế ở Việt Nam thời gian qua cho thấy những thất bại khi áp dụng biện pháp hình sự vào các doanh nghiệp vi phạm pháp luật, và từ đó bạn Quân chủ trương xử lý bằng con đường dân sự (thông qua cơ chế bồi thuờng thiệt hại), coi đó là hiệu quả nhất;
- Bạn Cương cho rằng phải kết hợp cả hai biện pháp (vỗ bằng hai bàn tay) và nhấn mạnh: không có các biện pháp trừng phạt về mặt nhân thân (bỏ tù, tước quyền công dân hoặc các hình thức khác) thì khó có điều kiện đủ mạnh để ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao. Nếu dùng chế tài dân sự (tức dùng tiền) thay thế, thì pháp luật sẽ ủng hộ sai phạm của những kẻ giàu chứ không phải chỗ dựa của toàn dân.
2. Để đi đến kết luận xử lý bằng biện pháp dân sự là hiệu quả nhất, bạn Quân có một số luận điểm, mà tựu chung lại, là dựa trên sự đánh giá mối quan hệ giữa hành vi vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp và thiệt hại gây ra cho xã hội: "thiệt hại kinh tế cho xã hội từ hoạt động quản lý kinh doanh của doanh nghiệp có thể được xác định dựa trên hiệu quả doanh nghiệp sử dụng các nguồn tài nguyên xã hội".
Tôi không đồng ý với quan điểm của bạn Quân vì các lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ cơ sở ban đầu rất có tính khoa học là đánh giá thiệt hại cho xã hội do các hành vi trái pháp luật của doanh nghiệp gây ra trước hết phải dựa trên hiệu quả doanh nghiệp sử dụng các nguồn tài nguyên xã hội. Bạn Quân đã "cô lập hoá" tiêu chí này, và từ đó bỏ qua hàng loạt những tiêu chí có ý nghĩa khác đã được thừa nhận rộng rãi từ lâu. Thuần tuý xét về phương diện kinh tế học thì lập luận của bạn Quân không có gì phải bàn vì thực ra lập luận đó cũng không phải là một "phát minh mới", nhưng ở đây chúng ta còn phải nhìn nhận vấn đề một cách tổng thể dưới góc độ chính trị học, luật học, xã hội học, tội phạm học... Trong các vụ doanh nghiệp vi phạm pháp luật ở Việt Nam cũng như trên thế giới, đánh giá hậu quả của các hành vi trốn thuế, buôn lậu, làm hàng giả...người ta đều phải dựa trên tổng thể nhiều tiêu chí khác nhau. Ngoài hậu quả sử dụng không hợp lý các nguồn tài nguyên xã hội, còn phải tính đến:
- Làm biến dạng quy luật cung cầu - quy luật căn bản đảm bảo sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Một doanh nghiệp giàu lên nhanh chóng nhờ các thủ đoạn trốn thuế, buôn lậu... cũng sẽ nhanh chóng "bóp chết" các đối thủ cạnh tranh khác kinh doanh lành mạnh, và từ đó, doanh nghiệp vi phạm pháp luật sẽ từng bước xác lập cho mình vị trí độc quyền, hoặc chí ít là vị trí ưu thế. Khi đã leo lên đến đỉnh cao này rồi thì doanh nghiệp tha hồ hoành hành: bán hàng giả với nhãn mác thật, bán hàng không đảm bảo chất lượng như quảng cáo, niêm yết, bán hàng với giá quá cao... Người gánh chịu thiêt hại trong trường hợp này trước hết là các doanh nghiệp khác kinh doanh cùng ngành nghề kinh doanh hợp pháp (bị thua lỗ, thậm chí phá sản), sau đó là người tiêu dùng (bị "rút tiền" một cách khéo léo mà không biết). Đây là xét dưới quan điểm kinh tế vi mô;
- Làm rối loạn thị trường và dẫn đến rối loạn hoạt động quản lý kinh tế của chính phủ. Các hành vi trốn thuế, buôn lậu, làm hàng giả...luôn làm đau đầu các nhà quản lý và tiêu tốn đáng kể nguồn lực của xã hội khi nhà nước phải huy động lực lượng để đấu tranh với các hành vi này. Đây là xét dưới góc độ kinh tế vĩ mô;
- Làm phương hại đến trật tự công cộng, khi các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp đã vượt qua những "ngưỡng" nhất định. Chừng nào còn nhà nước, còn pháp luật thì các quốc gia vẫn phải "tội phạm hoá" các hành vi này trong pháp luật hình sự của mình...
Thứ hai, xuất phát từ việc đánh giá thiệt hại một cách "cô lập" như trên, bạn Quân đã đi đến kết luận là chỉ có biện pháp dân sự mới giải quyết được vấn đề. Là một công dân Việt Nam, tôi rất chia sẻ với sự trăn trở của bạn Quân khi thấy đúng là trong thời gian qua, biện pháp xử lý hình sự có vẻ như chưa phát huy hiệu quả. Nói như bạn Thảo Lam trong bài Cần nhìn lại tư duy kinh tế qua vụ Đông Nam, là công an hễ cứ "đụng" vào doanh nghiệp nào là y như có sai phạm, mà sai phạm càng ngày càng lớn, sau Nguyễn Văn Mười Hai là Tăng Minh Phụng, rồi Tamexco (xin phép chưa liệt kê vụ Đông Nam vào đây vội vì dù sao vụ việc vẫn đang ở giai đoạn điều tra). Tội phạm học chỉ ra rằng tội phạm tồn tại khi có nguyên nhân và điều kiện để cho nó tồn tại. Về nguyên nhân đó chính là sự hấp dẫn của những khoản tiền khổng lồ thu được từ các hoạt động kinh doanh phạm pháp đã khiến nhiều chủ doanh nghiệp "mờ mắt" mà làm liều. Về điều kiện, trước hết là pháp luật vẫn còn những kẽ hở nhất định, sau đó là cơ chế thi hành pháp luật còn rắc rối, kém hiệu quả, rồi hiện tượng tham nhũng của một bộ phận cán bộ nhà nước tiếp tay thông đồng với kẻ phạm tội. Nước ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường được chưa đầy hai mươi năm, nhiều quan hệ kinh tế còn trong quá trình hình thành, nên những hiện tượng trên càng có điều kiện để tồn tại. Rồi cơ chế thi hành án đảm bảo cho bản án, quyết định của toà án được thi hành nghiêm chỉnh trên thực tế cũng còn nhiều vấn đề phải làm. Tuy vậy, không vì những biểu hiện trên mà đi đến kết luận thủ tiêu vai trò của chế tài hình sự và chủ trương chỉ cần dùng chế tài dân sự là đủ như bạn Quân, vì lẽ:
- Bản chất chế tài hình sự và chế tài dân sự là khác hẳn nhau, nhưng chúng không triệt tiêu nhau, mà thông thường trong các vụ án kinh tế thường phải song song áp dụng hai loại chế tài. Hãy thử tưởng tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra khi trong các vụ án đó, nhà nước cho phép các chủ doanh nghiệp dùng tiền bồi thường là xong chuyện, hoặc dùng tiền nộp để thay phải ngồi tù, nếu vậy thì chắc chắn rằng các ông chủ sẽ chẳng ngại ngần gì để huy động tiền (thậm chí đi vay) để được thoát khỏi vòng tố tụng. Chế tài hình sự có sức mạnh riêng mà chế tài dân sự không có được, đó là nó "đánh" vào nhân thân của con người (bỏ tù, thậm chí là tử hình...). Nó có tác dụng trừng phạt kẻ phạm tội, giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung, nói cách khác là kẻ phạm tội cũng như những người khác mới cảm thẩy "sợ pháp luật";
- Cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, đặc biêt là tội phạm kinh tế, là một cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt và lâu dài không chỉ riêng ở Việt Nam. Không nên từ thực tế là dùng chế tài hình sự xong rồi tội phạm vẫn không chấm dứt mà nhận định ngay rằng chế tài này không hiệu quả và đi đến kết luận là không áp dụng nó. Hãy thử tư duy ngược: tại sao chúng ta đã làm khá "mạnh" như vậy mà các tội phạm kinh tế vẫn không chấm dứt, vậy bây giờ ta "thả lỏng" thì tội phạm có chấm dứt không hay là đua nhau mọc lên như nấm? Thực tế ở các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Pháp, Đức, Italia... cho thấy nền kinh tế càng phát triển thì tội phạm kinh tế ngày càng nhiều, thủ đoạn ngày càng tinh vi, phạm tội ngày càng có tính tổ chức, mafia... và đòi hỏi chính phủ phải nỗ lực không ngừng và hết sức cao độ trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm;
- Ngày nay không một quốc gia nào chỉ áp dụng triệt để học thuyết "bàn tay vô hình" của Adam Smit để từ đó coi nhẹ vai trò của chính phủ trong quản lý kinh tế. Cũng chưa thấy quốc gia nào dám hùng hồn tuyên bố là để xử lý các hành vi trốn thuế, buôn lậu, làm hàng giả... chỉ bằng cách bồi thường thiệt hại là xong chuyện. Các hành vi này luôn được coi là nguy hiểm cho xã hội và các quốc gia đều coi đó là tội phạm cần phải được xử lý bằng con đường hình sự.
3. Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh một điều: chúng ta cần chống khuynh hướng "hình sự hoá các giao dịch dân sự, kinh tế" vì khuynh hướng này rất nguy hiểm, xâm phạm đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, thể hiện trình độ áp dụng pháp luật còn ở mức độ thấp. Tuy vậy, chúng ta cũng cần phải chống khuynh hướng "dân sự hoá" các quan hệ pháp luật hình sự, vì khuynh hướng này cũng nguy hiểm không kém, mà biểu hiện rõ nét nhất là hậu quả "nhờn pháp luật", vô hình trung tạo thêm một điều kiện để cho tội phạm kinh tế phát triển.
Tôi rất cám ơn tòa soạn đã tạo điều kiện đăng bài viết của tôi. Trong hai bài viết của bạn Quân còn rất nhiều vấn đề tôi thầy cần phải trao đổi thêm, song để khỏi "loãng" chủ đề, tôi xin không tiện đề cập ở đây. Với tinh thần khoa học, nếu bạn Quân đồng ý, chúng ta có thể trao đổi với nhau thông qua email.
Một lần nữa tôi xin chúc VnExpress một năm mới an khang, thịnh vượng.
Nguyễn Hữu Huyên
Nghiên cứu sinh năm thứ nhất về luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền - Đại học Montpellier I, Cộng hoà Pháp.
email: huyent@hotmail.com