Tiếng Việt ta là thứ tiếng đơn âm có vần, có thanh, nên người viết thích nói vần vè có nhịp điệu cho khoái cái lỗ tai “thẩm âm” của mình. Nói điều có nghĩa cũng tìm cách hiệp vần cho dễ nhớ, dễ thuộc, từ đó dễ lan truyền. Mà nói vô nghĩa, nói chơi, càng cần có vần vè cho bật cười, cho thích thú. Không chừng vì là vô nghĩa, nói chơi, nên vần càng bất ngờ, càng kéo theo những kết hợp, liên tưởng không ăn nhập gì với nhau trong câu nói thì hiệu quả khoái trá do ngôn từ gây nên càng mạnh.
Tôi đồ rằng trong kho tàng ca dao tục ngữ của ta có nhiều câu xuất xứ ban đầu là từ nói chơi, nói vui, nói buột mồm, rồi thì trong số đó câu nào có nghĩa mà được nhiều người công nhận thì được ghi nhớ và truyền tụng, còn những câu khác thì chỉ đáp ứng tức thời một nhu cầu nào đó rồi mất đi. Chẳng hạn, giữa một đám đông nói chuyện về sự thật thà, bàn qua tán lại, một người buột ra câu “thật thà là cha quỷ quái” được mọi người tán thưởng vì đề cao thật thà. Nhưng cũng chủ đề đó ở một cuộc khác có một người khác sau khi bàn luận chép miệng “thật thà là cha dại” cũng được mọi người chấp nhận vì quả trong đời người thật thà lắm khi thiệt thòi. Nói xuôi cũng được, nói ngược cũng xong, dân ta dễ tính, thuận tai nghe là gật, gặp trường hợp nào đó chợt nhớ ra câu nghe được thấy hợp thì nói câu “cha dại” hoặc câu “cha quỷ quái”, thế là thành ra cái câu buột miệng được truyền đi, không thì thôi. Hoặc giả đang trong một cuộc tranh luận gì đó, có kẻ xen vào liền bị mắng “biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”. Cái “dựa cột” này là của tiếng Việt vậy. Tôi tin là thế, tin là thời nào người Việt cũng thích nói vần vè, và có nhiều câu vần vè chỉ để cho vui, chỉ là sản phẩm của một thời. Cái câu “bố vợ phải đấm” thì có nghĩa lý gì, khi các nhà ngôn ngữ học giải thích đó là nói chệch, là biến âm của “khố rợ phải lấm”. Câu đó truyền từ xưa lại nên nay vẫn nói mà vui, chứ nếu nay câu đó phát ra trên miệng người trẻ thì chắc là bị “ăn đòn”. Chẳng phải người xưa đã nói “sướng con cu mù con mắt” đó sao!
Vậy nên, vấn đề đặt ra là sự có mặt của một cuốn sách như Sát thủ đầu mưng mủ (NXB Mỹ Thuật - Công ty Nhã Nam, 2011) có đáng làm to chuyện và chụp mũ? Cuốn sách có mắc cái tội tày đình là phá phách tiếng Việt hay thuần phong mỹ tục như ý kiến của một số luồng dư luận sôi sục mấy ngày qua? Bởi dăm năm nữa, sách này chính là một tài liệu giúp tìm hiểu ngôn ngữ đường phố, ngôn ngữ thành thị một thời của lứa tuổi trẻ, khi mà những câu nói được ghi lại trong đó đã không còn được dùng nữa. Chúng thay đổi nhanh lắm vì là lời nói cửa miệng, câu truyền miệng mà. Cuộc sống biến đổi từng ngày, nhất là thời đại hiện nay, giới trẻ lại là giới năng động, hiếu động, thích nghịch ngợm, phá phách theo bản tính lứa tuổi, mà trong ngôn ngữ học thì lĩnh vực từ vựng lại linh hoạt nhất, bám sát hiện tại nhất, dễ và mau biến đổi nhất. Thì đấy, một thời ta mở mồm ra là “hết sẩy”, nay từ này đã ít dùng, có khi mất hẳn. May chăng, nếu biến tấu theo kiểu trẻ bây giờ thành “hết sẩy con bà Bảy” thì nó còn sống thêm một thời gian nữa.
Những câu nói nôm na của lớp trẻ được gọi là “thành ngữ sành điệu” là phải. “Sành điệu” đây là khác người, là hợp thời, là bây giờ-ở đây-lúc này. Những người trẻ tận dụng tối đa các khả năng hiệp từ hợp vận của từ ngữ tiếng Việt để tạo ra những tổ hợp, những mệnh đề, những phán đoán, những câu bất ngờ, trái khoáy, cốt 1) gây cười cho vui, 2) xả căng thẳng, áp lực của đời sống hiện đại, 3) chứng tỏ “cái tôi” của thế hệ, 4) chỉ dấu thời đại và 5) chứng tỏ khả năng dùng tiếng Việt. Câu nói của kẻ tội phạm Năm Cam “cái gì không mua được bằng tiền thì có thể mua được bằng rất nhiều tiền”, và câu nói của giới trẻ “tiền thì anh không thiếu nhưng nhiều thì anh không có”, ngoài nội dung thực tế và ý nghĩa xã hội, chúng giống nhau ở cấu trúc gây bất ngờ về mặt logic. Nhà hiền triết phương Đông nói “nhân chi sơ tính bản thiện”, qua miệng người Việt Nam thành triết lý thực tiễn “nhân chi sơ là sờ vú mẹ, tính bản thiện là miệng muốn ăn”, còn bây giờ lớp thanh niên chọc đùa “tinh vi sờ ti con lợn”. Sao lại là “con lợn” vào đây mà không phải là con khác? Thì con nào khác cũng được, miễn là con có ti, mà tên gọi là vần trắc, ví như con chó, con hổ, con khỉ. Con lợn được xuất hiện trong câu nói chẳng qua chỉ là khi buột miệng thì từ gọi tên đó đã ở đầu lưỡi, vậy là xong. Cũng vậy, câu “ngu như bò còn thích hát hò” có thể sản sinh thành “dốt như lợn còn thích tí tởn”.
Tôi tin người Việt ai cũng mang sẵn trong mình cái “gene” bẻ câu sắp chữ như những người hát đối đáp ngày xưa và sẵn sàng mang ra dùng trong nhiều hoàn cảnh, tình huống, trường hợp. Lớp trẻ ngày nay quả có vấn đề về ngôn ngữ thật, nhưng là ở chỗ khác. Chẳng hạn, ở sự lạm dụng ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, đá ngang đá ngửa từ ngữ ngoại lai vào câu tiếng Việt, không biết khai thác và sử dụng các khả năng phong phú giàu có của ngôn ngữ dân tộc. Điều này cần phải được chấn chỉnh và khắc phục, trước hết từ chính bản thân họ. Còn những câu cửa miệng “sành điệu” này có câu gây sốc, có câu phản cảm, nhưng sẽ lại có những câu “sành điệu” khác thay thế, và đó cũng là một cách người trẻ rèn luyện khả năng tung hứng, đùa giỡn, và yêu tiếng Việt của mình.
Thú thực, đọc những câu thành ngữ mới đó, với nhiều người, trong đó có tôi, còn thấy khoái cảm về ngôn ngữ và tinh thần hơn đọc nhiều bài viết xơ cứng nội dung và nghèo nàn câu chữ.
Phạm Xuân Nguyên
Hà Nội, 26/10/2011