Ở Việt Nam, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, nền công nghiệp còn phụ thuộc quá nhiều vào bên ngoài, chìm đắm trong vòng gia công, lắp ráp. Song trong khối nông nghiệp, cho nông dân và phát triển nông thôn cũng phụ thuộc vào bên ngoài chả kém cạnh gì. Nghĩa là ở Việt Nam cũng đang cần có “nông nghiệp phụ trợ”. Đây không phải là vấn đề mới toanh, vì đã nhiều năm phải nhập thủy sản nguyên liệu cho chế biến thủy sản, hạt điều thô để sản xuất ra điều nhân và sản phẩm từ hạt điều, gỗ nguyên liệu làm đồ gỗ... Nhưng ngờ đâu nhiều thứ khác còn trầm kha hơn.
Cây lúa vốn chỉ biết đến phân bắc, phân xanh, rồi phải nhờ tàu vũ trụ của Liên Xô đem bèo hoa dâu lên tàu chín tầng mây để khảo nghiệm. Nay những thứ đó biến mất, thay bằng phân bón hóa học - phần lớn phải nhập khẩu. Các cây trồng khác theo gương cây lúa cũng dùng. Dùng thái quá hóa ra hệ lụy. Thần dược Gilbe reltic Acid Ga3 bón cho rau muống cọng lớn ngồng đến kinh hãi. Bón cho lúa cây lốp, hạt lép gây thất vọng. Nhiều thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu không rõ tung tích sinh vi khuẩn có hại hoặc dư lượng chất kháng sinh gây hậu họa khôn lường.
Lượng phân bón, thuốc trừ sâu ngoại nhập nhiều, giá của chúng leo thang. Để nhập khẩu 2 loại đầu vị này đã “sài”gần hết tiền xuất khẩu gạo. Trong khi việc xuất khẩu gạo và các rau hoa quả vốn còn nhiều bất cập, thành thử có thể xem như cấy lúa, trồng cây của nước ta là gia công cho nước ngoài.
Con lợn, con gà, đàn vịt gắn với nhà nông, nay cũng “chê” cám, ngô ta, “xơi” toàn thức ăn công nghiệp, trong đó phần lớn nhập ngoại. Quê ta không phải băm bèo nấu cám cách dách, đến bữa lợn ăn cứ đổ bao thức ăn là gọn.
Cá basa, ngày còn nuôi thả tự nhiên, thức ăn nghiền từ rau muống hoang + cám gạo + cá vụn ép thành khuôn thả cho ăn hàng ngày. Nay nuôi đại trà bằng thức ăn nhập khẩu, vừa dễ mua, vừa tiện và còn phải nhập khẩu cả thuốc thú ý để phòng, chữa bệnh cho cá. Xuất khẩu tuy có tăng về lượng nhưng còn lắm truân chuyên, khi rớt giá, kỳ lo đối phó với áp đặt thuế chống bán phá giá, lúc bị xăm soi về vệ sinh, an toàn thực phẩm. Giật mình về tình trạng này, đã có người thốt lên: “sản xuất và chế biến cá basa của nước ta đang như làm gia công cho nước ngoài”. Tình cảnh con tôm cũng vậy.
Có thể biện minh rằng ta đã có ngành sản xuất để tự túc một phần thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi thả thủy sản. Đáng ra nguyên liệu để làm ra sản phẩm này ta thừa sức thỏa mãn, song cũng phải nhập khẩu với tỷ lệ lớn. Thành thử ngành này cũng chỉ là gia công.
Hiệu quả tổng thể của việc sản xuất và xuất khẩu thịt thà, tôm cá ra sao còn phải hội thảo, nhưng hậu quả đã lãnh đủ. Phân rác không để bón ruộng nữa, đổ bừa ra đầu làng cuối xóm, xú uế nhếch nhác cảnh trí làng quê vốn thơm thảo mộc mạc. Mặt nước của khúc sông, góc vịnh thả bè cá như đặc quánh, tanh nồng.
Trung du Bắc bộ từng có lớp lớp đồi rừng trồng cây lấy nhựa gọi là sơn ta dùng làm hàng sơn mài truyền thống. Nay người sản xuất mặt hàng này cũng ngoảnh mặt với nó và thay bằng sơn ngoại nhanh, nhiều mầu, tiện lợi, khỏi lo “Sơn bắt từng mặt - Ma bắt từng người”. Tơ tằm óng mượt tấm lụa đào, nay cũng không đủ phải nhập sợi hóa học. Nhiều nghề thủ công mỹ nghệ này vốn tận dụng nguyên liệu tại chỗ, bây giờ đều chung tình với nguyên, nhiên, vật liệu ngoại nhập cộng (+) với việc dùng tới 90% mẫu theo đơn hàng nước ngoài - buộc phải dùng chất liệu theo yêu cầu của họ, nên tựu chung cũng chỉ là gia công cho ngoại quốc.
Có hai thứ dưới đây, việc phải dùng nguyên liệu nhập khẩu quá nhiều, góp phần kích giá bán của nó luôn động trời. Trời không biết có thấu. Còn đã là dân ai nấy đều thấm. Thấm mà vẫn nín nhịn vì nó thiết yếu cho người bệnh, trẻ nhỏ, cụ già. Trông cậy đến quản lý thì hô hào rồi cho qua. Đó là sữa và dược phẩm.
Dù phải nhập loại trâu, bò sữa hảo hạng để hy vọng dồi dào nguồn sữa. Song rút cuộc hiện sữa tươi cung cấp cho sản xuất sữa bột chỉ đáp ứng 30%, và với phương tiện thu vắt, bảo quản kém, giá thành đắt hơn sữa bột nhập ngoại chừng 30%, nên phải nhập khẩu từ châu Âu, New Zealand, Mỹ, Australia, Trung Quốc... dưới dạng bột tới 70%. Ngành sữa Việt Nam cũng nguyên hình là gia công của gia công. Đó là khoảng tối để người ta tha hồ “múa may” về giá.
Việt Nam có chừng 3.800 cây làm thuốc trong tổng số 10.600 loài thực vật. Nhưng hiện tại đang lệ thuộc dược liệu nhập khẩu để sản xuất thuốc chữa bệnh tới 90%. Cây vằng đắng chế ra thuốc berberin chữa đau bụng, tốt tươi ở vùng An Khê thuộc địa phận Gia Lai và Bình Định, nay mất dần vì bị nằm dưới lòng hồ thủy điện Vĩnh Sơn. Còn ở Phước Long, Bình Phước khi biết cây vằng đắng có giá trị chữa bệnh, dân đổ xô chặt phá, thu lượm nay gần như không còn. Sản phẩm từ cây hồi của Việt Nam chế ra axít Shikimíc (nguyên liệu quan trọng nhất để sản xuất Oseltamivir - hoạt chất chế thuốc Tamiflu chữa cúm A/H5N1. A/H1N1), với hàng chục ngàn ha ở vùng Đông Bắc, nay bị khai thác bừa bãi bán qua Trung Quốc, tới Ấn Độ, vòng vo mãi mới quay lại Việt Nam.
Rõ ràng việc phải có sản phẩm phụ trợ nông nghiệp để nông nghiệp và kinh tế nông thôn giữ được bản sắc, phát huy lợi thế đồng đất quê ta, là cần kíp. Nếu cứ để tình trạng này tiếp diễn, nước nông nghiệp lại làm gia công cho nông nghiệp thì khó coi quá. Song “công nghiệp phụ trợ” được săn sóc cả chục năm nay mà vẫn chưa đâu vào đâu huống hồ là “phụ trợ nông nghiệp”, nên xin đừng hối thúc.
Nguyễn Duy Nghĩa, nguyên phó chánh văn phòng Bộ Thương mại
Bài viết cùng tác giả:
> Bất cập trong kiểm soát nhập siêu
> 10 bất cập trong xuất khẩu
> Chưa thể kỳ vọng nhiều từ xuất khẩu quý một
> Suy ngẫm về quan hệ thương mại Việt - Trung