![]() |
Ba mức lựa chọn cao trình cho thủy điện Sơn La. |
Sông Đà là chi lưu lớn nhất của hệ thống sông Hồng. Trên lãnh thổ Việt Nam, sông Đà có chiều dài khoảng 540 km, từ Mường Tè (Lai Châu) đến Việt Trì (Phú Thọ). Với độ chênh lệch cao trình khoảng 300 m, lại uốn khúc quanh co, núi non trùng điệp, sông Đà và các chi lưu của nó chứa đựng tiềm năng thủy điện to lớn, 22-30 tỷ kWh mỗi năm, chiếm 1/2 tổng tiềm năng của cả nước.
Khai tác tối đa tiềm năng này, đồng thời ngăn chặn các con lũ lớn từ sông Đà đổ xuống hạ lưu là mục tiêu quan trọng của dự án thủy điện Sơn La. Tuy nhiên, trên cả dòng chảy dài 540 km sẽ xây dựng bao nhiêu con đập để tạo nên bao nhiêu hồ chứa là khó khăn đầu tiên nảy sinh. Trong hàng chục phương án được xem xét, nổi lên 3 phương án sau đây:
- Phương án 1 - Sơn La cao (mực nước trung bình 265m), với hai bậc thang: Sơn La cao - Hòa Bình.
- Phương án 2 - Sơn La thấp (215 m), với ba bậc thang: Lai Châu - Sơn La thấp - Hòa Bình.
- Phương án 3 - Sơn La nhỏ (205 m), với bốn bậc thang: Lai Châu - hai đập ở Sơn La - Hòa Bình.
Mỗi phương án đều có mặt mạnh và yếu. Tranh luận lớn nhất giữa các nhà khoa học và các nhà quản lý xoay quanh phương án 1 và phương án 2. Cho đến lúc này, sau khi giới khoa học phản đối quyết liệt phương án 1 do không bảo đảm an toàn, an ninh và ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi sinh, Chính phủ đã thống nhất chọn phương án Sơn La thấp.
Theo PGS-TS Tô Bá Trọng (Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam), ưu điểm đầu tiên của phương án Sơn La cao là sản lượng điện trung bình hàng năm nhiều hơn.
Nếu ở phương án này, khả năng cấp điện hàng năm là 14,16 + 2,4 tỷ kWh, thì phương án Sơn La thấp chỉ cấp được 8,46 + 1 tỷ kWh. Tuy nhiên, phương áp Sơn La thấp còn để ngỏ khả năng xây dựng các nhà máy thủy điện trên dòng chính ở Lai Châu và các dòng sông nhánh. Những nhà máy thủy điện đó tương lai sẽ bù đắp được “thiệt thòi” về điện năng so với phương án Sơn La cao. Hơn nữa, với hồ Sơn La thấp, còn có thể xây dựng công trình thủy điện trên sông Nậm Mu, hỗ trợ điều tiết dòng diện giữa giờ cao điểm và thấp điểm.
Yêu cầu cao nhất của thủy điện Sơn La là đảm nhận nhiệm vụ chống lũ lụt cho hạ lưu. Đến nay, các nhà khoa học gần như thống nhất rằng, tổng dung tích chống lũ của các hồ chứa phía bắc là khoảng 10 tỷ m3, trong đó các hồ chứa trên sông Đà cần đảm bảo khoảng 7 tỷ m3. Hồ Sơn La cao (với tuổi thọ công trình trên 100 năm) đáp ứng rất tốt với yêu cầu chống lũ còn lại. Nhưng hồ Sơn La thấp (với tuổi thọ nhỏ hơn, khoảng 40 năm) và hồ Lai Châu tương lai với tổng dung tích chống lũ khoảng 5 tỷ m3 cũng đáp ứng được yêu cầu này.
Hồ Sơn La cao với dung tích khổng lồ sẽ là nơi lưu chứa và điều tiết một khối lượng nước rất lớn cung cấp cho vùng hạ lưu, đặt biệt khi nhu cầu về nước phục vụ sản xuất và đời sống ngày càng tăng trong nhiều thập kỷ tới. Tuy nhiên, phương án này sẽ nhấn chìm hơn 25.000 ha đất nông, lâm nghiệp và cả thị xã Lai Châu, chia cắt tỉnh Lai Châu thành 3 vùng biệt lập, khó bề liên hệ với nhau (theo tác giả Bảo Nguyên đăng trên báo Khoa học và Đời sống, diện tích đất bị ngập là trên 40.500 ha ở dự án hồ Sơn La cao, và 18.600 ha ở phương án hồ Sơn La thấp).
Số người cần phải di chuyển và tái định cư lên đến hơn 10 vạn, trong khi với phương án Sơn La thấp, con số đó khoảng 7 vạn. Trong điều kiện đất đai ngày càng khan hiếm, việc di cư đến các vùng xa gặp nhiều khó khăn, thì sự chênh lệch giữa hai phương án này rất đáng để suy nghĩ.
Một vấn đề đặt ra khi lựa chọn hai phương án thủy điện này là việc đảm bảo an toàn cao nhất cho các công trình và vùng hạ lưu, đặc biệt là thủ đô Hà Nội.
Tây Bắc là vùng có nguy cơ động đất mạnh nhất ở nước ta. Xây dựng và đảm bảo an toàn cho một công trình đồ sộ trong điều kiện địa chất đó theo phương án Sơn La cao là rất phức tạp và tốn kém. Mặc khác, sự xuất hiện một hồ chứa nước khổng lồ sẽ tác động mạnh trở lại đến nền đất và làm tăng thêm nguy cơ động đất (động đất kích thích). Ngược lại, với việc phân tán lượng nước hàng chục tỷ m3 vào hai hồ Sơn La thấp và Lai Châu, những tác động cục bộ đó sẽ yếu hơn. Kết quả tính toán sóng vỡ đập cũng cho thấy, khi gặp rủi ro vỡ đập Sơn La, thì trong phương án cao, nguy cơ vỡ đập Hòa Bình sẽ lớn hơn trong phương án thấp (còn theo tác giả Bảo Nguyên, nếu giả thuyết vỡ đập Sơn La thì ở cả hai mực nước dâng bình thường 215 m và 265 m, đại đa số các trường hợp mực nước ở tuyến Hòa Bình đều vượt trên đỉnh đập và gây nên sự cố vỡ đập Hòa Bình). Nếu điều đó xảy ra thì thảm họa sẽ thật khôn lường với đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có Hà Nội
Mặt khác, các tỉnh Tây Bắc lại tiếp giáp với các nước láng giềng, núi non hiểm trở, địa hình phức tạp. Đảm bảo điều kiện cho công tác an ninh nội địa và giữ vững biên giới là yêu cầu có tính chất quyết định lâu dài. Hồ Sơn La cao sẽ dâng nước tới rất gần biên giới phía Bắc, làm ngập nhiều hang động, thị xã Lai Châu và phần lớn đường 12, chia Lai Châu thành 3 vùng tách biệt. Những yếu tố này gây rất nhiều khó khăn cho việc thực hiện yêu cầu trên.
Với dung tích khổng lồ và mặt nước mênh mông, hồ Sơn La cao sẽ góp phần cải thiện môi trường đất, nước và không khí vùng Tây Bắc. Nhưng nó sẽ tiêu diệt nhiều loài thực vật, đẩy các loài động vật sinh sống trên mặt đất và trên cây lên cao hơn, chia cắt các quần thể động vật, hạn chế sự phát triển của các chủng loài về số lượng…
Xét về phương diện kinh tế năng lượng thuần túy thì phương án Sơn La cao hơn phương án Sơn La thấp. Nhưng phương án này đòi hỏi phải tập trung trong một thời gian dài khoản vốn đầu tư gấp rưỡi so với phương án Sơn La thấp.
Và nếu xét thêm đầy đủ các yếu tố khác, khó lượng hóa, nhưng lại có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của Tây Bắc và cả nước, như an toàn cho công trình và hạ lưu, vấn đề an ninh, quốc phòng... thì tính ưu việt của phương án Sơn La cao giảm đi rất nhiều.
Trong khi đó, những điểm mạnh của phương án Sơn La thấp lại hấp dẫn hơn: Đáp ứng về cơ bản các mục tiêu của dự án. Tương đối ít rủi ro đối với hạ lưu, ít ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng; diện tích ngập nhỏ hơn, số dân cần di dời và tái định cư ít hơn.
Như vậy, nhìn từ nhiều góc độ, việc xây dựng công trình này không hề đơn giản. Vì thế, không thể vì việc thúc bách của nhu cầu điện năng mà đưa ra những quyết định vội vàng chưa được cân nhắc kỹ. Trong kỳ họp Quốc hội khóa 10 diễn ra từ ngày 15/3 đến ngày 9/4, Quốc hội dự kiến sẽ xem xét và thảo luận về dự án nhà thủy điện này. Nhưng vì nhiều lý do, trong đó có sự thận trọng, việc thông qua dự án đã bị hoãn lại.
Theo PGS-TS Tô Bá Trọng (Khoa Học Và Đời Sống)