Cây cứt lợn. |
Cây "cứt lợn" còn có tên gọi hoắc hương kế, bạch hoa thảo, bạch hoa hương thảo, cỏ hôi, tiêu viêm thảo. Tên khoa học là ageratum conyzoides L. Đó là cây thảo sống hàng năm, cao 30-50 cm, thân thẳng, phân nhánh; lá mọc đối, có lông trắng; hoa màu tím hoặc trắng. Cây thường mọc hoang ở nhiều nơi, được dùng toàn cây làm thuốc.
Theo Đông y, cây cứt lợn vị cay, hơi đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu sưng, cầm máu, trừ sỏi; thường được dùng chữa các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp, viêm họng, viêm dạ dày, đau bụng, sỏi thận, sỏi bàng quang. Nó cũng hỗ trợ điều trị ung thư cổ tử cung, ung thư dạ dày. Khi dùng ngoài, cây cứt lợn giúp chữa eczema, chốc đầu, viêm xoang mũi, dị ứng cấp, rong huyết sau đẻ... Dân gian thường dùng cây này nấu nước gội đầu cùng với bồ kết.
Một số bài thuốc thường dùng:
- Viêm họng: Cây cứt lợn 20 g, kim ngân hoa 20 g, lá giẻ quạt 6 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần.
- Viêm đường hô hấp: Cây cứt lợn 20 g, lá bồng bồng 12 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần.
- Sỏi tiết niệu: Cỏ cứt lợn 20 g, kim tiền thảo 16 g, râu ngô 12 g, mã đề 20 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần.
- Phụ nữ đẻ xong chảy máu không ngừng: Cây cứt lợn 30-50 g, vò nát, vắt lấy nước uống liên tục trong 3-4 ngày.
- Eczema, chốc đầu: Cây cứt lợn lượng vừa phải, nấu nước rửa tổn thương, ngày 1-2 lần.
- Viêm xoang: Cây cứt lợn 30 g, kim ngân hoa 20 g, ké đầu ngựa 12 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần.
- Ung thư cổ tử cung, ung thư dạ dày: Cây cứt lợn 20 g, cỏ nhọ nồi, kim nữu khấu, dạ hương ngưu mỗi thứ 30 g, giã nát, thêm nước cây ma phong 15 ml, uống sau bữa ăn 1-2 lần.
BS Kim Ngân, Sức Khoẻ & Đời Sống