Hai truyện Đánh thơ và Thả thơ đều kể về việc đánh bạc bằng thơ, theo Thạch Lam là "một cách đánh bạc phủ ngoài một vẻ tao nhã, văn chương".
Việc thả thơ được cô Tú, con gái cụ Nghè Móm giảng cho học trò cụ như sau: Thầy sẽ viết vào mảnh giấy trắng này một câu thơ bảy chữ mà chỉ... có sáu chữ thôi. Còn một chữ thì để trống và thay vào đấy một cái khuyên tròn. Cái khuyên tròn thay chữ đó thường gọi là chữ vòng. Đây này, chị lấy một câu làm thí dụ thì các em rõ ngay.
Các em biết câu: "Quân hướng Tiêu Tương, ngã hướng Tần" đấy chứ? Ừ, thí dụ bây giờ định thả câu thơ ấy. Và định vòng chữ "hướng" ở đoạn dưới. Thầy sẽ viết vào mảnh giấy nhỏ này: "Quân hướng Tiêu Tương, ngã... Tần".
Và khi ngâm câu thất ngôn có sáu chữ ấy lên thì thường phải ngâm: "Quân hướng Tiêu Tương, ngã... "vòng"... Tần". Chữ "vòng" đây thay vào chỗ để trống. Bây giờ mới nói đến những chữ "thả" ra. Thí dụ thầy thả năm chữ: Cố, tại, vọng, phản và luôn cả cái chữ hướng trong nguyên văn. Thường chỉ thả có năm chữ thôi.
...Muốn đánh chữ gì thì chọn lấy một trong năm chữ mà đánh. Đánh trúng thì một đồng ăn ba đồng.
Ngoài những tác phẩm trên, mỗi truyện trong Vang bóng một thời lại mang một câu chuyện, vẻ đẹp xưa cũ. Theo nhà văn Thạch Lam, trong truyện Một cảnh thu muộn, Nguyễn Tuân đã khéo léo phác họa được không khí của những ngày đi mất. Truyện Trên đỉnh núi Tản lại cho thấy một hình khác của tài năng, một sức am hiểu thấm thía vào linh hồn của những vật vô tình như cỏ cây, đá núi.
Khuyết điểm của Vang bóng một thời, theo Thạch Lam là lối hành văn cầu kỳ, sự kiểu cách, lỗi về âm điệu trong câu văn. Có lẽ, tác giả muốn nói hết cả những cái mình biết và tác giả biết nhiều nên có sự lộn xộn khi viết.

Nhà văn Nguyễn Tuân. Ảnh: Báo Quân đội nhân dân
Nguyễn Tuân (1910-1987) là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam với sở trường về tùy bút và ký. Ông được sinh ra ở phố Hàng Bạc (Hà Nội), trưởng thành trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
Nguyễn Tuân được học đến bậc Thành chung thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối giáo viên Pháp nói xấu người Việt năm 1929. Sau đó ít lâu, ông lại bị tù vì đi qua biên giới tới Thái Lan không có giấy phép. Ra tù, ông bắt đầu viết báo, viết văn.
Năm 1945, Nguyễn Tuân tham gia cách mạng và kháng chiến, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Từ năm 1948 đến 1957, nhà văn giữ chức Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.
Mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên bác. Mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hóa, mỹ thuật.
Ông đã thử bút qua nhiều thể loại thơ, bút ký, truyện ngắn trào phúng, song đến năm 1938 mới nhận ra sở trường của mình với một số tác phẩm được đánh giá xuất sắc như Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua.
Tác phẩm của Nguyễn Tuân trước năm 1945 chủ yếu xoay quanh ba đề tài là chủ nghĩa xê dịch, vẻ đẹp vang bóng một thời và đời sống truỵ lạc. Sau đó, sức sáng tác của Nguyễn Tuân ngày càng dồi dào. Ông đi nhiều nơi, sáng tác nhiều tác phẩm xuất sắc Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956), Tùy bút Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972).
Theo đánh giá của các nhà phê bình văn học, Nguyễn Tuân rất mực tài hoa, tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật gồm hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt, vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện. Nguyễn Tuân được nhiều người trong giới văn học và độc giả tôn vinh là "ông vua tùy bút".