Chiều đông, Hà Nội chìm trong cơn mưa phùn và đợt rét đậm kéo dài. Nghĩa trang Hợp Thiện nằm trong ngách sâu hun hút của ngõ 559, đường Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng. Nếu không muốn bị lạc, người đi viếng phải hỏi thăm mấy lần, rồi gọi điện cho người quản trang theo số điện thoại ghi trên tấm bảng treo ngoài cổng. Năm 2013, nghĩa trang được tôn tạo, mở thêm một cổng từ phía đường Minh Khai. Khách vào nghĩa trang bằng cổng này phải đi nhờ qua bãi đỗ xe của một hãng taxi nên ít người biết đến.
Nơi an nghỉ của nạn nhân trong nạn đói năm Ất Dậu nằm lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng. Người quản trang tên Đặng Văn Tuyến (63 tuổi) gắn bó với nơi đây tròn 10 năm. Ông kể, khu này trước là ngoại ô Hà Nội, rộng mênh mông. Năm 1968, ông đi qua thấy cỏ lau mọc đầy, không có tường bao quanh. Phố thị đổi thay, Hợp Thiện thu hẹp lại chỉ còn 158 m2.
|
Bể chứa xương người đã được ốp đá, phần nổi chứa tiểu sành, còn phần xương quy tập nằm dưới lòng đất. Video: Thanh Tùng. |
Nghĩa trang chẳng có gì ngoài tấm bia đá khắc bài tế của giáo sư Vũ Khiêu với những lời ai oán: Có cơn gió bụi vừa tan/ Hai triệu sinh linh đã mất/ Khí oan tối cả mây trời/ Thây lạnh phơi đầy cỏ đất; bức tường đơn sơ đắp dòng chữ "Nơi an giấc ngàn năm của đồng bào chết vì oanh tạc và nạn đói 1944-1945"; bệ đặt bát hương, ngôi nhà thờ và bể chứa xương người lớn nhất Việt Nam.
Hàng chục nghìn sinh linh chết không gỗ ván, không bia mộ tìm được nơi mai táng trong một nấm mồ chung. Bể chứa ấy được ốp gạch hoa, bên trên bày hai hàng chậu cảnh. Nếu người quản trang không nói thì chẳng ai hay. Phần nổi của bể chứa nằm trên mặt đất xếp đầy tiểu sành như người ta xếp từng lớp cá. Còn phần chìm sâu dưới lòng đất sâu bao nhiêu, rộng bao nhiêu chính ông không biết.
Trên tường, nơi khách thắp hương treo những hình ảnh quy tập xương cốt đồng bào do cố nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh ghi lại. Đây là thân hình xác xơ vì đói, nhìn không ra đàn ông hay đàn bà; kia là chồng chất xương sọ được xếp lại trong hầm đem chôn mà người yếu bóng vía sẽ không dám ngắm.
Người dân quê từ các vùng Thái Bình, Nam Định, Hải Dương... ùn ùn kéo lên Hà Nội ăn xin. Người sống ngắc ngoải được đưa xuống trại Giáp Bát, khi ấy còn gọi là làng Tám, thuộc tổng Thịnh Liệt, Thanh Trì. Người đói lả, chết còng queo bên vệ đường thì đưa về đây chôn.
Trông coi nghĩa trang nhiều năm, ông Tuyến biết có nhiều ngôi nhà xây dựng xung quanh khu này, khi đào móng phát hiện đầy xương người lẫn tiểu. "Có nhà đào được hơn 80 chiếc tiểu sành, không mang ra nghĩa trang khác chôn được vì không có đất, đành quây lại một góc nhà rồi để bát hương thờ cúng", ông kể.
Ngày rằm tháng 7 âm lịch, người ta vẫn tổ chức làm lễ cầu siêu cho người đã khuất. Người dân thi thoảng đến viếng vào ngày rằm, mùng một. Còn ngày thường thì nghĩa trang khóa cửa, ai đến gọi thì ông Tuyến mở cửa.
Ông cho hay, người Việt có khi không biết nghĩa trang này, nhưng nhiều người Nhật Bản đến Việt Nam thì lại biết rất rõ ràng. Họ là nhà sử học, nhà nghiên cứu, khách du lịch, có những người từng tham chiến ở Việt Nam. Thậm chí, có người đến đây rồi còn quay lại vài lần. "Mỗi lần đến thắp hương, họ đều nói rằng rất tiếc vì những sai lầm mà thế hệ đi trước đã gây ra thảm họa cho người Việt Nam. Rất nhiều người cúi đầu, nói câu xin lỗi", ông cho hay.
Ở các vùng quê từng được coi là "tâm đói", dấu tích còn lại là một số gò, quán với nhiều cách gọi như Mả Đói, Gò Lâu, Mả Ma...
Trước đây nghĩa địa thôn Tồn Thành, xã Giao Thịnh (Giao Thủy, Nam Định) nằm cách làng gần 2 km, vốn là chân ruộng ngập nước. Ông Vũ Viết Ruông, nhân chứng nạn đói cho biết, bãi tha ma chôn người chết đói nay đã là ruộng canh tác hoa màu. "Người chết đói nhiều, song từ trước tới nay trong làng không có một ngày giỗ chung, hay một nơi thờ tự để tưởng nhớ đến người xấu số. Họ sống không có miếng ăn, chết không có nơi thờ cúng", cụ ông 85 tuổi ngậm ngùi.
Làng biển Phú Xá (xã Quảng Đại, Quảng Xương, Thanh Hóa) có nhiều người chết đói nhất xứ Thanh năm Ất Dậu. Nơi chôn cất họ được dân làng gọi tên là cồn Mả Quán. "Người chết nhiều đến nỗi không còn chỗ táng nên mồ cứ lấn dần phần đất của người sống, lấn luôn ra biển. Hầu hết nấm mồ thời đó đã bị sóng biển cuốn trôi hoặc gió và bão cát xóa dần dấu vết. Con cháu đời sau có khi không tìm thấy xương cốt ông cha", ông Nguyễn Xuân Tài, người thôn Thủ Phú (một trong ba thôn của làng Phú Xá) kể.
Cồn Mả Quán nằm sát bờ biển hiện nay được quy hoạch thành khu du lịch. Ông Tài nhớ chuyện mấy năm trước, có lần đơn vị thi công tuyến đường liên thôn gần cồn Mả Quán còn múc được rất nhiều xương ống và sọ người. Người dân xây nhà đào được xương cốt liền lấp đất lại chứ không quy tập sang khu vực khác.
Nạn đói quét qua Tây Lương (Tiền Hải, Thái Bình) khiến xã này chỉ còn lại 1/3 dân số. Xưa kia, 5 thôn trong xã đều có những khu mồ tập thể nằm rải rác. Nay chỉ còn sót lại nghĩa địa Gò Lâu nằm ở thôn Hiên.
"Đến năm 1972, bom Mỹ dội xuống cánh đồng cạnh Gò Lâu. Thanh niên, dân quân xã đi lấp hố bom còn phát hiện nhiều xương cốt bị bom cày xới tung lên. Giờ chân ruộng lấn dần, cũng chẳng còn mấy mộ. Xương cốt của những người chết đói năm ấy, có lẽ tan hết vào cánh đồng thôn Hiên rồi", bà Hoàng Thị Nụ (91 tuổi) nhà cạnh Gò Lâu cho biết. Bà Nụ trầm ngâm bảo, nhắc đến Gò Lâu, Mả Đói, chỉ có các cụ trong làng mới biết là nơi chôn người chết đói, chứ người trẻ sinh sau đẻ muộn thì chịu thôi.
Chủ tịch UBND xã Tây Lương, ông Phạm Ngọc Thạch, thừa nhận: "Tôi nghe các cụ trong làng kể lại nên mới biết đó từng là mộ tập thể của người chết đói. Do quy hoạch đất ở, nhà cửa cứ lấn dần lên, hiện nay vết tích những nơi đó còn lại rất ít. Ngoài nghĩa địa Gò Lâu, trong xã cũng không có nơi nào để tưởng niệm hàng ngàn người chết đói năm ấy".
Ngoài những mộ tập thể có tên, được người xưa chôn cất còn có mộ do vô tình nước lũ đưa về, như ở cửa Ba Lạt (Hồng Thủy, Giao Thủy, Nam Định). Năm xưa, xác chết đói của dân chài trôi từ thượng nguồn về đều nổi ở doi cát gần cửa Ba Lạt. Dân xã Hồng Thuận đã chôn cất và dựng ngôi miếu thờ, lấy tên gọi là Bách Linh. Ngôi miếu ấy giờ trở thành "nhà chung" của người chết đói, chết đuối nơi cửa sông, cửa biển.
Trên khắp 32 tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ từ Quảng Trị trở ra đều có những khu mồ tập thể, như bãi Âm hồn, khu Hai Dốc (thành phố Thái Nguyên), khu mộ ở Làng Trung (Nghệ An) hay những nấm mồ hoang ở Thổ Ngọa (Quảng Bình). Qua thời gian, những cái tên ấy chỉ còn là dĩ vãng. Dưới lòng đất, xương cốt tiêu tan, phía trên đó là trụ sở cơ quan, nhà dân, cánh đồng, trường học.
Nhóm phóng viên