Thị trường xe máy trong nước
Xe máy là phương tiện giao thông chính tại Việt Nam với hơn 65 triệu chiếc được đăng ký, trên tổng số 96 triệu dân. Con số này có nghĩa cứ ba người thì có 2 người sở hữu một chiếc xe máy vào năm 2020.

Chuyên viên đang nghiên cứu, phân tích thị trường.
Việt Nam là quốc gia có doanh số bán xe máy duy trì ở mức ổn định trong suốt 10 năm qua, với khoảng 3 triệu xe mới bán ra mỗi năm. Trong đó, doanh số thấp nhất 2,7 triệu xe năm 2014 và cao nhất 3,39 triệu xe năm 2018. Năm 2010, tỷ lệ xe máy và xe con đăng ký trong nước tăng cao, đạt 55,9 xe máy trên mỗi chiếc ôtô, liên tục giảm xuống 26,7 vào năm 2020. Đồng thời, GDP bình quân đầu người liên tục tăng, từ 1.317 USD năm 2010 (CAGR là 7,8%) lên 2.785 USD năm 2020.
Theo đó, tỷ lệ đường trải nhựa tăng từ 64,4% năm 2010 lên 84%. Tổng chiều dài đường cao tốc tăng gần 10 lần, từ 89 km năm 2010 lên 1.163 km năm 2020, giúp kết nối các thành phố lớn trong nước và hỗ trợ cả việc sử dụng ô tô.
Thị trường xe máy trong nước có 5 nhà sản xuất lớn gồm: Honda, Yamaha, Suzuki, SYM và Piaggio, cùng chiếm hơn 90% tổng số xe máy tiêu thụ tại Việt nam trong nửa đầu 2021. Năm 2017, Chính phủ đã công bố quyết định chuyển đổi xe hai bánh có động cơ đốt trong sang động cơ điện vào năm 2030, tập trung chủ yếu tại Hà Nội và TP HCM.
Tháng 11/2018, thị trường xe máy điện có sự gia nhập của VinFast Klara. Đến 2021, hãng đã sản xuất thêm 3 dòng xe máy điện mới với tổng đơn hàng nhận được là 50.000 xe, trong đó đã sản xuất được 45.118 xe. Yadea, doanh nghiệp lớn trong ngành này tại Trung Quốc vào thị trường Việt Nam năm 2019. Từ đó, công ty tư vấn và nghiên cứu thị trường ABeam cho rằng, thị trường xe máy trong nước đã bước vào giai đoạn bão hòa khi lượng xe con có xu hướng tăng nhanh. "Thị trường xe máy sẽ phát triển bền vững, con số tăng ổn định và không có đột biến đáng kể trong thập kỷ tới", báo cáo của ABeam có đoạn.
Thị trường xe máy ASEAN
ASEAN là khu vực có vai trò quan trọng với thị trường xe máy toàn cầu, đứng thứ 3 thế giới, sau Ấn Độ và Trung Quốc. Trong khu vực này, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam là ba quốc gia đứng đầu, tổng doanh số hơn 13,7 triệu chiếc. Đến 2019, tổng số xe máy đăng ký là 106 triệu chiếc tại Indonesia, 62 triệu chiếc tại Việt Nam và 21 triệu chiếc tại Thái Lan.
Từ 2010 đến 2019, Myanmar là thị trường tăng trưởng cao nhất với CAGR đạt 14%, từ 1,8 triệu lên 6,1 triệu chiếc. Yếu tố tác động chủ yếu đến thị trường xe là thu nhập quốc dân hoặc GDP. Một nghiên cứu gần đây từ Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Kỹ thuật an toàn Đường bộ của Malaysia năm 2020 chỉ ra rằng, trong giai đoạn đầu của một nền kinh tế đang phát triển, do mức thu nhập còn thấp, doanh số bán xe máy lại ghi nhận thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ, song song với sự gia tăng của thu nhập cá nhân. Điểm mấu chốt là khi mức thu nhập trung bình của người dân đủ cao để mua một chiếc ôtô sẽ dẫn đến việc doanh số bán xe máy sẽ giảm. Mối quan hệ giữa GDP bình quân đầu người và tỷ lệ sở hữu xe máy, ôtô chở khách được xem như là một hình chữ U đảo ngược.
Mặt khác, người dân ở các nước phát triển trong khu vực ASEAN như Thái Lan đang giảm tốc độ khi thay thế xe máy cũ và chuyển sang mua ôtô con bình dân, với những lý do chính như thu nhập tăng, các sáng kiến chính sách và mở rộng cơ sở hạ tầng. Điều này thể hiện rằng đất nước phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường xe hơi, đồng thời nhẹ nhàng chuyển sang thị trường xe máy cao cấp hơn với động cơ lớn hơn (xe thể thao) và xe điện.
Tác động của thị trường xe máy đến ôtô
Theo Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Kỹ thuật an toàn Đường bộ của Malaysia năm 2020, tỷ lệ sở hữu xe máy sẽ tăng lên, với sự phát triển của nền kinh tế của quốc gia nhưng sẽ giảm khi mức thu nhập đạt đến ngưỡng cụ thể.
Bước ngoặt từ thị trường xe máy sang ôtô có thể khác nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau, chẳng hạn như cơ sở hạ tầng đường bộ và mức độ bất bình đẳng. Ngoài ra, sau khi nền kinh tế phát triển và thu nhập đạt mức cao hơn nữa, mối quan hệ giữa GDP bình quân đầu người và xe máy trở nên tích cực trở lại, khi người tiêu dùng yêu cầu xe máy động cơ lớn hơn (xe phân khối lớn trên 250 cc) hoặc xe máy điện.
Ví dụ điển hình cho vấn đề này là tại Trung Quốc, nơi số lượng xe máy trên 100 hộ gia đình tại thành thị đã tăng đáng kể từ 6,3 chiếc năm 1995 lên khoảng 25 chiếc năm 2007, sau đó giảm xuống còn khoảng 19 chiếc năm 2019 trong khi GDP của nước này đã tăng đáng kể so với hai thập kỷ qua. Tương tự, tổng lượng bán ra giảm từ 26,6 triệu chiếc trong năm 2010 xuống còn 15,2 triệu chiếc vào năm 2019 (giảm 6,02% hàng năm).
Mặc dù phần lớn thị trường xe máy tại Trung Quốc tập trung phân phối xe cỡ nhỏ, những phân khúc thị trường xe máy động cơ lớn vẫn tăng trưởng cùng lúc. Doanh số bán xe máy dưới 250 cc tại Trung Quốc chiếm 98,7% tổng doanh số năm 2019 (tương đương khoảng 13 triệu chiếc) trong khi xe máy từ 250 cc trở lên ghi nhận 177.000 chiếc bán ra trong năm 2019, tăng mạnh so với khoảng 10.000 chiếc ở 2010. Trung Quốc đa phần xuất khẩu xe máy sản xuất ra nước ngoài, số lượng sản xuất xe máy có động cơ lớn hơn 150 cc từ năm 2015 đến 2018 cũng cho thấy mức tăng từ 787.000 chiếc lên 1,05 triệu chiếc (CAGR là 10,12% trong thời gian khoảng thời gian).
Nghiên cứu ABeam cho thấy vị trí của mỗi quốc gia được nghiên cứu trong khu vực ASEAN về mối quan hệ giữa hai thị trường được đề cập tới để dự đoán các xu hướng tiềm năng trong tương lai. Triển vọng thị trường của các quốc gia đó được phân tích dựa trên nhiều yếu tố khác nhau.
Các quốc gia trong khối ASEAN với mức thu nhập ngày càng tăng, cùng với các sáng kiến chính sách và cơ sở hạ tầng mở rộng, người dân ở các nước đang phát triển tại khu vực ASEAN như Thái Lan đã giảm tốc độ trong việc thay thế xe máy cũ và dần chuyển sang việc mua xe du lịch nhỏ. Từ đó, thị trường xe máy cuối cùng dần bị thu hẹp để mở rộng thị trường xe hơi trong khu vực.
Mục tiêu của ABeam cho bài nghiên cứu này là mô tả bức tranh thị trường xe máy của các nước lớn trong ASEAN, ước tính bước ngoặt và tác động đối với thị trường xe hơi.
Xem báo cáo chi tiết tại đây
(Nguồn: ABeam)