Thông tin được PGS. TS. Lê Văn Truyền, Chủ tịch Hội đồng tư vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc (Bộ Y tế) cho biết tại tọa đàm Công nghiệp Dược Việt Nam và hành trình tham gia toàn cầu hóa, chiều 31/7. Đây là dịp các chuyên gia đầu ngành và đại diện doanh nghiệp dược cùng chia sẻ những góc nhìn, kinh nghiệm và giải pháp để phát triển ngành công nghiệp dược Việt Nam.
PGS Truyền cho biết ngành công nghiệp dược Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng cao trong 10 năm qua với tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm (CARG) cao, đạt 7,3%. Thống kê của Cục Quản lý Dược, Bộ Y tế, hiện thị trường thuốc Việt khoảng 7 tỷ USD, bình quân tiêu thụ thuốc 70 USD/đầu người, tăng gấp 10 lần so với năm 2000.
Việt Nam hiện thuộc nhóm quốc gia có tổng giá trị thị trường dược phẩm và mức tăng trưởng ngành dược nhanh nhất thế giới. Tổng giá trị thị trường dược phẩm tại Việt Nam đạt 2,7 tỷ USD trong năm 2015, tăng lên 5,1 tỷ USD năm 2018 và năm 2020 đạt 6,1 tỷ USD. Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ngành công nghiệp dược Việt Nam ở cấp độ 3 (cấp có ngành công nghiệp dược nội địa, có sản xuất thuốc generic, xuất khẩu được một số dược phẩm).
"Tuy nhiên, công nghiệp dược Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức và khó khăn trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới", ông Truyền nói, thêm rằng thách thức đầu tiên mà ngành đang phải đối mặt là cơ sở vật chất - kỹ thuật - công nghệ còn thấp. Việt Nam mới chỉ có 17/250 nhà máy đạt tiêu chuẩn GMP tiên tiến. Hơn 200 nhà máy đạt WHO GMP nhưng không có nhà máy nào được WHO tiền thẩm định.
Việt Nam cũng chưa có các khu công nghiệp dược - sinh học tập trung với một hệ sinh thái bao gồm: Trung tâm nghiên cứu và phát triển, thử nghiệm tương đương sinh học - sinh khả dụng, thử nghiệm lâm sàng, kiểm nghiệm, nhà máy sản xuất dược phẩm, nhà máy sản xuất bao bì đóng gói, các trung tâm cung cấp dịch vụ liên quan, đặc thù cho công nghiệp dược phẩm...
Tiếp theo, về năng lực tài chính, đa số công ty dược phẩm trong nước quy mô nhỏ, doanh số thấp và chưa có các tập đoàn dược phẩm quy mô quốc gia, nguồn lực tài chính để đầu tư mới rất hạn chế.
Ngoài ra, sự thay đổi cấu trúc thị trường dược phẩm từ thuốc hóa dược sang thuốc sinh học, sinh học tương tự được các chuyên gia dự báo trong các thập kỷ tới sẽ diễn ra rất mạnh mẽ. Thị phần thuốc sinh học, sinh học tương tự sẽ chiếm khoảng 40% thị trường dược phẩm toàn cầu và Đông Nam Á do già hóa dân số và chuyển đổi mô hình bệnh tật.
Chuyển đổi số cũng là những thách thức lớn đối với các doanh nghiệp dược ở Việt Nam hiện nay trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu.
Tại tọa đàm, bà Võ Thị Tuấn Anh, Chủ tịch Tập đoàn Newtechco, cũng đánh giá trong thời gian qua, ngành y tế đã có những bước tiến vượt bậc, chủ động nguồn dược phẩm và trang thiết bị. Tuy vậy, trước nhu cầu ngày càng tăng cao của xã hội, cũng như các nguy cơ dịch bệnh luôn thường trực, chuỗi cung ứng có thể bị gián đoạn. Cùng với đó, chi phí vận chuyển, cung ứng tăng cao, các nguồn dược phẩm và thiết bị y tế sẽ trở nên khan hiếm, dẫn đến giá thành tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác khám, chữa bệnh cho người dân.
Trước những thách thức này, PGS Truyền cho rằng cần có chính sách đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở vật chất và nâng cao năng lực sản xuất của các nhà máy dược phẩm hiện có; đồng thời hỗ trợ cho các doanh nghiệp dược để xây dựng và phát triển nhà máy mới, đặc biệt các nhà máy sản xuất thuốc sinh học/sinh học tương tự.
Mỗi doanh nghiệp cần xem xét, điều chỉnh, thay đổi chiến lược phát triển trung và dài hạn để phù hợp với đường lối của Nhà nước, môi trường kinh doanh quốc tế, khu vực và trong nước. Từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của công nghiệp dược Việt Nam.
Ngành dược Việt Nam đang được xem là ngành công nghiệp mũi nhọn cần tập trung nguồn lực để đẩy mạnh phát triển. Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 trở thành trung tâm sản xuất dược phẩm giá trị cao trong khu vực. Trong đó, giá trị xuất khẩu thuốc sản xuất trong nước đạt khoảng một tỷ USD.
Lê Nga