Báo cáo tổng quan về thị trường M&A Việt Nam năm 2016 tại diễn đàn do Báo Đầu Tư tổ chức ngày 11/8, Phó tổng giám đốc Deloitte Đông Nam Á - Jeffrey Pirie cho rằng, tuy chỉ chiếm 5% (tương đương 5,8 tỷ USD) tổng giá trị các thuơng vụ mua bán – sáp nhập được ghi nhận trong khu vực, nhưng so với dân số và thu nhập bình quân thì con số này vẫn rất ấn tượng.
Bán lẻ, sản xuất hàng tiêu dùng và bất động sản tiếp tục là những lĩnh vực sôi động nhất. Đối tác nước ngoài thực hiện M&A cũng có sự phân hoá rõ rệt theo ngành hàng, trong khi Nhật Bản chủ yếu đầu tư vào các công ty hàng không, xăng dầu, dược phẩm thì Thái Lan vẫn “trung thành” với mảng bán lẻ, Hàn Quốc với mảng thực phẩm và tài chính – ngân hàng. Xét về quy mô thương vụ, các giao dịch quy mô nhỏ với giá trị khoảng 3-4 triệu USD vẫn chiếm tỷ lệ áp đảo.
Hoạt động mua bán sáp nhập từ nửa cuối năm 2016 đến nay đang có dấu hiệu chậm lại, số lượng thương vụ quy mô lớn ngày càng hiếm hoi. Với kịch bản thận trọng, giá trị các thương vụ M&A năm nay sẽ cán mốc 5 tỷ USD, giảm 14% so với năm ngoái. Trong trường hợp có sự đột biến từ các thương vụ thoái vốn doanh nghiệp nhà nước thì ước tính giá trị có thể đạt từ 6,2-6,5 tỷ USD hoặc cao hơn.
“Để khuấy động thị trường này, cần tập trung khai thác lợi ích từ Hiệp định Thương mại tự do (FTA) bằng cách thúc đẩy thực hiện đúng các thoả thuận đã ký và chống lại chế độ bảo hộ mậu dịch. Đồng thời, nới lỏng tỷ lệ sở hữu nước ngoài nhưng phải quản lý, giám sát và minh bạch tình hình tài chính của các doanh nghiệp nhà nước để tạo tâm lý tin tưởng cho nhà đầu tư”, ông Jeffrey Pirie nhận định và đề xuất Chính phủ tăng tự do hoá các thị trường cơ bản, tăng số lượng IPO và bán cổ phiếu cho nhà đầu tư chiến lược để tạo cú hích mạnh mẽ cho thị trường M&A năm nay.
Thị trường M&A Việt Nam có dấu hiệu chững lại sau một năm tăng trưởng đột phá. |
Phân tích của một số chuyên gia đầu tư cho rằng, thiếu nguồn hàng quy mô lớn là nguyên nhân chính dẫn đến nguy cơ thị trường M&A tăng trưởng âm. Hầu hết nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến những doanh nghiệp “khủng”, trong khi vốn điều lệ của doanh nghiệp niêm yết phần lớn dao động quanh mức 2-4 triệu USD, vốn hoá thị trường khoảng 5-10 triệu USD.
Hiện, tỷ lệ muốn nắm giữ cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam còn ở mức cao. Ngoài các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa và đang thoái vốn từng phần thì đa số công ty tư nhân vẫn chưa thoát khỏi tâm lý không muốn bán hết cổ phần. Điều này không đáp ứng được nhu cầu sở hữu tỷ lệ chi phối để chủ động trong các hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài.
“Nguồn hàng của thị trường M&A chủ yếu đến từ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn ở các doanh nghiệp đã cổ phần hoá. Do đó, trong thời gian tới, cơ quan chuyên trách sẽ rà soát và công khai danh sách doanh nghiệp nhà nước thoái vốn lần lượt từ đây đến năm 2020. Đồng thời, thực hiện ‘mở cửa’ trong lĩnh vực tư vấn xác định tài chính doanh nghiệp và đổi mới phương thức bán vốn để giải quyết bài toán nguồn hàng”, ông Đặng Quyết Tiến - Phó Cục trưởng Tài chính doanh nghiệp, Bộ Tài chính cho hay.
Theo Vụ trưởng Quản lý cấp phép các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng Bùi Huy Thọ, ngân hàng là lĩnh vực sẽ đóng góp nguồn hàng lớn cho thị trường. Việc này không đến từ thoái vốn mà sẽ thông qua hình thức phát hành riêng lẻ. Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu các tổ chức tín dụng vừa được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thực thi vào giữa tháng 8 tới đây cũng được kỳ vọng gỡ nút thắt về nguồn hàng giá trị khủng trong hoạt động mua bán sáp nhập.
“Có không ít nhà đầu tư quan tâm M&A ngân hàng yếu kém nhưng phải thừa nhận rằng quá trình mua lại diễn ra không hề đơn giản. Chính phủ đang có chủ trương khuyến khích các nhà đầu tư tham gia mua cổ phần các ngân hàng, trong đó có thể mua 100% cổ phần ngân hàng 0 đồng. Điều này chưa từng xảy ra bởi quy định trước đây, tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài tại một tổ chức tín dụng là 20% và tổng tỷ lệ các nhà đầu tư nước ngoài không quá 30%”, ông Thọ cho hay.
Ngoài ra, còn nhiều yếu tố khác tác động tiêu cực đến thị trường M&A trong thời gian tới như định giá doanh nghiệp quá cao khiến bên bán và bên mua không tìm được tiếng nói chung, doanh nghiệp nội địa khó hoà nhập với văn hoá quản trị doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài. Hiện, đa số doanh nghiệp vẫn còn hình thức kế toán hai sổ khiến nhà đầu tư hoài nghi về tính minh bạch của báo cáo tài chính và thông tin công bố, ảnh hưởng lớn đến dòng vốn ngoài rót vào thị trường.
Phương Đông