Trần Phỏng Diều -
![]() |
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Ảnh: Nguyễn Công Thành |
Thị hiếu thẩm mỹ là một hình thái biểu hiện năng lực và nhu cầu tinh thần của cá nhân. Theo đó thì bất cứ một cá nhân nào ưa thích những hiện tượng thẩm mỹ nào đó là do cá nhân đó đã tiếp nhận một nền giáo dục, một môi trường giáo dục, có những thói quen, tính cách, kinh nghiệm sống và giao tiếp nhất định tương ứng. Hoặc là cá nhân đó đã chịu ảnh hưởng của hiện tượng thẩm mỹ nào đó đang diễn ra hàng ngày của môi trường xung quanh, của lối sống và những nhân tố thẩm mỹ trong lao động và sinh hoạt. Và nhất là của nghệ thuật, mà thị hiếu thẩm mỹ của một cá nhân được hình thành. Vì vậy, đi tìm thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thực chất là đi tìm những hình tượng văn học trong sáng tác của tác giả. Các hình tượng văn học này cứ trở đi trở lại và trở thành một ám ảnh khôn nguôi, buộc người viết phải thể hiện ra tác phẩm của mình.
Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn của vùng đất Nam bộ, tuổi thơ của chị đã gắn liền với những dòng sông uốn khúc, rừng đước bạt ngàn, đồng lúa mênh mông... Ở đó có những mảnh đời nông dân lam lũ, tần tảo sớm hôm mà vẫn không thoát được cuộc đời nghèo khó.
Nhưng dù cuộc sống có như thế nào đi nữa, họ vẫn là những người nông dân thật thà, chất phác, yêu say đắm, thương hết mình, thích đờn ca tài tử và rất mê hát cải lương. Do đó, có thể nói thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư được biểu hiện qua hình tượng người nghệ sĩ, hình tượng người nông dân và hình tượng con sông đưa mình uốn khúc, chở nặng tình người. Ba hình tượng này đã thật sự là vùng thẩm mỹ của Nguyễn Ngọc Tư, nếu viết chệch đi hướng này, rất có thể tác phẩm của chị sẽ kém hay đi.
Người nghệ sĩ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thường có số phận hẩm hiu, tình duyên không trọn vẹn, cuộc sống kém ổn định. Chọn hình tượng này để thể hiện, rõ ràng Nguyễn Ngọc Tư muốn chia sẻ, cảm thông với cuộc đời của người nghệ sĩ. Họ là những người đem lời ca tiếng hát của mình để mua vui cho đời, nhưng khi trở về với cuộc sống thực tại thì bị đời hắt hủi. Hầu hết những nghệ sĩ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thường yêu nghề, say mê với nghề. Họ sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình, bỏ lại sau lưng mẹ già, con thơ để sống trọn vẹn với nghề, sống trọn kiếp cầm ca. Cuộc đời của họ đôi khi trải qua bao sóng gió, có khi phải chạy cái ăn đến toát mồ hôi nhưng lòng yêu nghề của họ không hề vơi đi chút nào.
Ở Cuối mùa nhan sắc, tác giả cho ta thấy lòng yêu nghề đến mãnh liệt của những người đã "một thời vang bóng", nay còn lại chút hơi tàn, họ cũng cố dành trọn cho nghề. Vì vậy, cả nhóm nghệ sĩ cuối mùa đã tập hợp lại cất một cái nhà, đặt tên là "Buổi chiều" để kiếm từng đồng tiền mà sống qua ngày, và đặc biệt là để họ được tồn tại, được cất lên lời ca tiếng hát vào mỗi đêm cho thỏa lòng mong nhớ sân khấu. Mặc dù nơi họ hát chỉ là một khoảng sân rộng, khán giả chỉ là những người quẩn quanh ở xóm. Thì mặc, miễn là được diễn, miễn là được hát, như thế là thỏa lòng: "Sân khấu là cái hàng ba trông ra sân rộng, luống nào trồng bông sao nhái, bông mười giờ thì trồng, chỗ trống dành cho bà con ngồi. Dàn đờn gồm ghita thùng, cây nhị cũ mèm. Không micro, nghệ sĩ ca bằng giọng của trời cho, nghiệp đãi. Đào Phỉ tám mươi chín tuổi, đứng không nổi, diễn vai gì cũng ngồi trên ghế mà lấy cái roi sãy ngựa coi lạ hết biết".
Và họ yêu nghề, say mê nghiệp hát đến mức, bản thân mang trọng bệnh những vẫn nhất mực đòi ra hát đến khi ngã gục trên sân khấu mới thôi. "Đào Hồng ốm sát chiếu nhưng vẫn đòi ra hát. Ông Chín vẽ chân mày, tô phấn thoa son cho bà rồi dìu bà ra ghế. Bà ngồi ghế mà hát. Bà hát cho thái hậu Dương Vân Nga trước ngổn ngang nợ nước tình nhà, hát cho nàng Quỳnh Nga bên cầu dệt lụa, cho nàng Thoại Khanh hiếu thảo róc thịt nuôi mẹ chồng, cho nàng Châu Long tảo tần nuôi Dương Lễ, Lưu Bình ăn học và cho Tô Thị trông chồng hóa đã vọng phu...
Đào Hồng hát đến lịm tiếng đi. Bà ngồi trên sân khấu, gục đầu. Cái gánh nặng tâm tư này, không mang nổi nữa rồi. Khi ông Chín dìu bà xuống giường, bà đã hôn mê. Người ta hát vở cuối cho bà, cho một người nghệ sĩ chân chính".
Vì muốn trở thành một người nghệ sĩ chân chính, muốn nổi danh bằng chính lao động nghệ thuật của mình, chị Diệu trong Làm má đâu có dễ đã sẵn sàng xa lìa núm ruột sơ sinh của mình để mong đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật. Bởi vai Trưng Trắc là mà chị đã chờ đợi từ lâu, bởi khi được đóng những vai như vậy, chị mới mau nổi tiếng: "Đặt con xuống giường, chị thấy cái miệng nhỏ xíu của nó mút mút. Rồi từ đó chị không dám nhìn thêm một lần nào nữa, sợ mãi mãi mình không thể nhấc chân đi. Mà chị thì không thể từ bỏ ước mơ của mình, trở thành cô đào hát nổi tiếng. Làm sao từ chối vai diễn đã chờ đợi, nàng Trưng Trắc oai hùng trong Tiếng trống Mê Linh".
Cũng chính vì yêu nghề, dâng trọn đời mình cho gánh hát cải lương nên San trong Bởi yêu thương dù rất thích cải lương, rất muốn trở thành nghệ sĩ nhưng lại không dám đi hát. Không phải vì không biết hát, bởi nghệ sĩ Sáu Tâm đã dạy cô hát rồi. Cô không dám đi hát chỉ vì một lý do đơn giản - đơn giản nhưng vô cùng hệ trọng đối với cô, đối với những người yêu nghệ thuật cải lương chân chính. Đó là vì trước đây, San từng làm tiếp viên ở quán bia. Cô sợ khi hát, lỡ như mình nổi tiếng, người ta nhận ra mình trước đây từng làm tiếp viên ở quán bia thì làm hoen ố đi nền nghệ thuật cải lương nước nhà. "Hỏi về giấc mơ trở thành đào hát, nó cười đã bỏ lâu rồi. Đi hát lỡ nổi tiếng, ví dụ thôi nghe, người ta biết lúc trước tôi từng làm tiếp viên quán bia thì nhơ danh cả một giới nghệ sĩ, làm người ta mất cảm tình với cải lương, vậy khác nào hại cả nền cải lương nước nhà".
Nhìn chung, hình tượng người nghệ sĩ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thường là những người sống trọn vẹn với nghề, dù phải trả giá bằng cả cuộc đời họ vẫn chấp nhận.Chính vì lẽ đó mà người nghệ sĩ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư thường có số phận buồn. Cuộc đời nghệ sĩ và cuộc đời thực của họ không trùng khít với nhau, đôi khi lại đối lập nhau. Họ sống trọn vẹn với vai diễn của mình, với những hào quang trên sân khấu, nhưng khi cởi áo mão ra rồi, rửa trôi lớp phấn trên mặt đi thì lòng họ lại đầy nỗi ưu tư. Người có con nhưng không được làm mẹ, nước mắt lưng tròng khi núm ruột của mình rứt ra lại gọi mình bằng chị và coi mình như khách; người phải gánh chè đi bán, người phải bán vé số, người nằm liệt giường nhưng không có tiền để mua thuốc uống. Cuộc đời nghệ sĩ của họ đã cống hiến biết bao công sức của mình cho nền nghệ thuật sân khấu nhưng đến cuối đời lại hẩm hiu đến vậy.
Nói đến điều này, cũng có nghĩa là tác giả đã đứng về phía họ, nghiêng mình xuống với họ, sẻ chia và cảm thông. Đây chính là tính nhân bản, nét nhân văn cao cả và cũng là nội dung tư tưởng của hệ thống truyện về người nghệ sĩ của Nguyễn Ngọc Tư.
Nếu ở hình tượng người nghệ sĩ, Nguyễn Ngọc Tư đi sâu vào cuộc đời nghệ sĩ của họ thì ở hình tượng người nông dân Nam bộ, tác giả lại nghiêng về tính cách nhiều hơn. Đó là những con người hiền lành, chất phác, thật thà, nhưng tình yêu và tình người thì dạt dào như biển nước Cà Mau. Họ yêu ai là yêu trọn đời, họ tin ai là tin đến quên đường về, và mặc dù cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn, họ sẵn lòng cưu mang những người thất cơ lỡ vận. Tiêu biểu cho tính cách này là truyện ngắn Cái nhìn khắc khoải. Nhân vật cô Út trong truyện đã yêu và đặt niềm tin mãnh liệt vào một anh thợ gặt mà cô không hề biết gốc gác ở đâu. Anh ta làm ít, nhậu nhiều, nợ nần chồng chất, chị phải nai lưng ra trả. Nợ nhiều quá, người ta siết nợ, anh đành phải bỏ chị mà trốn đi. Vậy mà chị không hề thù hận anh, mà chỉ trách một cách rất nhẹ nhàng bằng hai từ "tệ thiệt", và giận quá, chị gọi anh ta bằng "thằng", "thằng đó" thì lập tức có tiếng xin lỗi đi kèm. Rồi lủi thủi ra bờ sông ngồi khóc, bơ vơ nơi xứ người, không biết phải đi về đâu. Bản tính người phụ nữ Nam bộ là vậy, hiền lành, vị tha và yêu hết mình: "Chị ngồi vấn vạt áo: "Ai cũng nói em ngu, cực cỡ nào em cũng chịu, miễn là mình thương người ta". Vậy mà cái thằng đó (xin lỗi) tệ thiệt, làm ít, nhậu nhiều. Tới đây, nhậu nhẹt nợ nần, chị ra gánh trả. Nợ nhiều quá, mấy cái quán tạp hóa đòi lấy xuồng, nửa đêm chồng chị trốn đi, bỏ chị lại. Không biết quê chồng, không về được quê mình, chị ra bờ sông ngồi khóc".
Thấy chị khóc, ông Hai chèo ghe ngang, quay mũi ghe lại, hỏi thăm cớ sự và cho chị đến ở tạm nhà mình. Biết mình là người ăn nhờ ở đậu, chị cố gắng làm lụng việc nhà, chăm sóc ông chu đáo, nhưng vẫn một lòng mong ngóng tin chồng. Vì sự chăm sóc tận tình của chị, trong ông Hai có chút tình cảm nảy sinh, nhưng khi nghe tin chồng chị ở nơi nào ông liền chỉ cho chị, mặc dù có chút ngậm ngùi: "Ông bước xuống đẩy mớ dừa vô mẻ un. Xơ dừa mịn, cháy rực, rồi tắt ngấm.
- Ảnh tên Sinh phải hôn cô Út? Ờ, Sinh, ảnh... cũng đang gặt bên đó, cô Út à!
- Anh Hai!
Chị buông cái khăn xuống kêu bàng hoàng.
- Tàu từ xã chạy nông trường lúc năm giờ, ngang đây chắc cỡ sáu giờ rưỡi. Cô ráng đón chuyến đó. Để lỡ tới bữa sau, sợ mấy ảnh lại chuyển đồng, kiếm cực lắm. Tính vậy nghen cô Út".
Con người Nam bộ sống đẹp như thế, yêu thì yêu hết mình, còn tin thì tin mãnh liệt, lấy tình người ra đối đãi với nhau dù người đó họ chưa hề quen biết, nén chặt lòng mình để người khác được vui, ngậm ngùi nhưng lại vun đắp hạnh phúc cho người khác.
Chính tình cảm của họ dạt dào như vậy nên họ cũng không vui khi nhìn thấy người khác buồn lòng. Họ chỉ thật sự vui khi niềm vui đó không phiền lòng người khác. Vì lẽ đó mà dì Diệu không đành lòng thấy Lành buồn. Vợ chồng dì sống với nhau nhiều năm nhưng không có con, dì Diệu mới bàn với chồng là nhờ Lành - người giúp việc trong nhà sinh hộ. Bản hợp đồng đã được lập ra nhưng khi sắp đến ngày sinh con thì chị Lành biến mất. Dì quan tâm đến đứa bé thì ít mà quan tâm đến chị Lành mới nhiều, "Dì không tiếc tiền của, công sức, dì không tiếc tình thương dồn đắp cho chị Lành, dì chỉ cảm thấy xót xa cho mình, "làm người ai lại đi giành con với người ta", dì luôn dằn vặt vậy. (Làm mẹ). Nhưng chị Lành cũng không ở tệ. Sau nhiều đêm suy nghĩ, khi mà dì Diệu tìm kiếm trong tuyệt vọng thì chị Lành xuất hiện. Hai người phụ nữ, hai người mẹ của đứa bé đã ôm chầm nhau khóc, ai cũng cảm thấy mình có trách nhiệm phải thương yêu và chăm sóc cho đứa bé, cũng như quan tâm và chăm sóc cho nhau.
Mặc dù phần lớn người nông dân Nam bộ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đều nghèo, đều có một số phận long đong, vất vả nhưng trên hết, họ sống với nhau bằng cái tình, bằng sự thương yêu và đùm bọc lẫn nhau. Đây là một cá tính khá nổi bật của người Nam bộ, mặc dù nghèo kiết xác nhưng lại chơi hết mình và yêu hết cỡ, thậm chí sẵn sàng hy sinh bản thân để giúp nhau trong hoạn nạn:
Dấn mình vô chốn chông gai
Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân
Lao xao sóng bủa dưới lùm
Thò tay vớt bạn chết chìm cũng ưng.
Nguyễn Ngọc Tư quả là có cái nhìn sâu sắc, tinh tế, có khả năng phát hiện ra những ngõ sâu trong tâm hồn những người nông dân Nam bộ, những niềm vui, nỗi buồn, cốt cách đặc trưng cũng như bản chất cố hữu của họ.
Một hình tượng khá nổi bật nữa trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là hình tượng con sông. Hình tượng này đã trở đi trở lại nhiều lần và trở thành một thị hiếu thẩm mỹ nên nó xuất hiện rải rác trong các truyện ngắn của chị.
Để lý giải điều này, tưởng cũng nên tìm hiểu đôi chút về đặc điểm của vùng đất Nam bộ. Nam bộ có hệ thống sông ngòi chằng chịt, con người ở đây sống nương dựa vào sông, rồi khi lớn lên theo mẹ ra đồng bắt ốc, hái rau cũng gắn liền với sông nước. Có thể nói mọi hoạt động của con người Nam bộ dường như không tách khỏi con sông, dòng nước. Nguyễn Ngọc Tư cũng là người gắn liền với sông nước Nam bộ nên hình ảnh con sông cứ trở đi trở lại trong chị tạo thành nguồn cảm hứng cho sáng tác của mình [...].
Trong tập truyện ngắn Giao thừa, Nguyễn Ngọc Tư dành hẳn một truyện lấy tên là Nhớ sông, đủ thấy tác giả gắn bó mật thiết với con sông như thế nào. Cốt truyện rất đơn giản, không có những tình tiết gay cấn mà chỉ là những sự kiện, những hồi ức, những kỷ niệm, suy tư rất đỗi nhẹ nhàng nhưng có sức lay động lòng người. Đọc xong truyện, người đọc cũng cảm thấy ngậm ngùi, có sự đồng cảm, sẻ chia cùng tác giả, như chính nỗi nhớ mông lung, lâng lâng khó tả đến lạ lùng. Con sông gắn bó với chị em Giang từ thuở lọt lòng, rồi lớn lên hai chị em lại theo cha sống kiếp thương hồ lênh đênh trên mặt nước. Vì vậy ấn tượng về con sông trong chị em Giang rất là mạnh mẽ. Giang những tưởng cuộc đời mình sẽ gắn liền với sông nước. Nhưng ba Giang hiểu được cuộc sống của kiếp thương hồ nên mong muốn chị em Giang phải sống trên đất để lo tương lai cho mình và con cháu mình. Và Giang đã có chồng, sống trên đất liền, phải xa dòng sông, vì vậy, Giang nhớ sông lắm, một nỗi nhớ mênh mang, gắn với biết bao kỷ niệm thời Giang còn lênh đênh trên sông nước. Giang nhớ sông đến nỗi, cơm nước xong, Giang chèo ghe một vòng cho đỡ nhớ rồi chèo về [...].
Cũng là một cách nhớ sông nhưng trong Dòng nhớ thì lại gắn với một câu chuyện tình - chuyện tình tay ba, sum họp rồi chia ly, chia ly rồi đợi chờ, tất cả đều xảy ra trên dòng sông, nên con sông ở đây chứa đầy ắp những kỷ niệm mà buộc con người phải nhớ. Trong Dòng nhớ, người kể chuyện là nhân vật xưng tôi, kể lại câu chuyện của gia đình mình. Ba của "tôi" yêu một người nhưng gia đình không đồng ý. Cả hai dành dắt díu nhau sống kiếp thương hồ. Và khi sinh được một đứa con thì đứa bé té sông chết, ba của "tôi" bỏ về với gia đình và cưới vợ khác. Nhưng người con gái kia vẫn ngày ngày cắm sào đợi trông. Cho nên ở Dòng nhớ, nhớ về con sông không chỉ vì nó thân thuộc mà còn ẩn chứa biết bao kỷ niệm, kỷ niệm về những nỗi yêu thương và niềm tiếc nuối, gắn liền với cuộc tình thủy chung, gắn bó, mãi mãi hướng về nhau nhưng lại không được gần nhau: "Lo cũng phải, không phải ba tôi nhớ vườn xưa mà chống gậy về, ông nhớ sông, một ngày ba bốn lượt lủi thủi chống gậy ra bến, cặp mắt như nhớ mong, như hờn giận. Ba tôi vốn là người của sông mà. Ông đang ở đây nhưng tâm hồn ông, trái tim ông, tấm lòng ông chảy tan vào dòng nước tự lâu rồi".
Cùng với hình tượng người nông dân, người nghệ sĩ, hình tượng con sông đã góp phần làm nên nét đặc trưng trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Cũng nói về vùng đất và con người Nam bộ nhưng Nguyễn Ngọc Tư có cách tiếp cận khác: không có gì lớn lao mà rất đỗi đời thường, như dòng sông chẳng hạn. Nhưng từ cái nhỏ bé, đời thường tưởng chừng như ai cũng biết mà khái quát nó lên, chuyển tải lòng mình vào đó mới chính là giá trị của nghệ thuật. Thành công của Nguyễn Ngọc Tư cũng là ở đó. Giọng văn của chị có duyên, đôi khi dí dỏm nhưng ngọt ngào và sâu sắc. Câu văn giản dị, mộc mạc, chân tình, đọc truyện chị tưởng như đang trò chuyện với chị vậy. Phong cách Nguyễn Ngọc Tư là như thế.
(Nguồn: Văn Nghệ Quân Đội 6/2006)