Ông Nguyễn Bá Sơn, Chủ tịch Hội Luật quốc tế Việt Nam (VSIL) hôm 29/10 gửi thư cho ông Hoàng Tiến, Chủ tịch Hội Luật quốc tế Trung Quốc (CSIL), nêu rõ những mâu thuẫn trong các lập luận của ông này với các sai phạm trên thực tế của Bắc Kinh trên Biển Đông.
VSIL hôm 24/8 gửi thư ngỏ cho ông Hoàng Tiến, khẳng định nhóm tàu khảo sát Địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc hoạt động từ đầu tháng 7 nằm hoàn toàn trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, được xác định trên cơ sở Điều 57 và 76 của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS).
Ông Hoàng ngày 19/9 có thư phản hồi, nhắc đến "nguyên tắc chấp thuận" của quốc gia trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế và nguyên tắc "đất thống trị biển" để xác định các quyền trên biển của quốc gia.
Phản bác quan điểm này, Chủ tịch VSIL cho rằng khi phê chuẩn UNCLOS, Trung Quốc đã thể hiện sự chấp thuận của quốc gia đối với các nghĩa vụ pháp lý quốc tế được quy định trong Công ước, bao gồm việc chấp nhận thủ tục tài phán bắt buộc, công nhận và thực hiện Phán quyết mang tính chất chung thẩm và ràng buộc năm 2016 mà Toà Trọng tài đã tuyên.
"Với việc từ chối tham gia vụ kiện trọng tài Biển Đông với Philippines và tuyên bố không công nhận giá trị ràng buộc của Phán quyết của Tòa Trọng tài theo Phụ lục VII của UNCLOS, Trung Quốc đã vi phạm nguyên tắc chấp thuận mà quốc gia với tư cách là thành viên UNCLOS cần tuân thủ", ông Sơn nêu rõ.
Nhắc đến nguyên tắc "đất thống trị biển", ông Sơn cho rằng Toà Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông đã đưa ra kết luận "không có bất kỳ thực thể luôn nổi nào tại khu vực quần đảo Trường Sa đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Điều 121 UNCLOS để có quyền có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của riêng mình". Điều này có nghĩa các thực thể luôn nổi thuộc quần đảo này chỉ có thể có tối đa lãnh hải 12 hải lý. Các thực thể giữa biển, nằm dưới mặt nước biển khi thủy triều lên không phải là đảo, không có vùng biển xung quanh.
Toà Trọng tài cũng đưa ra kết luận "không một quốc gia nào có quyền yêu sách vẽ đường cơ sở quần đảo bao quanh quần đảo Trường Sa và xem quần đảo Trường Sa là một thực thể đơn nhất có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng, vì nhóm đảo này không đáp ứng các điều kiện để có đường cơ sở quần đảo theo quy định tại Điều 47 của UNCLOS hoặc đường cơ sở thẳng theo quy định tại Điều 7 của Công ước".
"Khu vực mà Trung Quốc gọi là bãi Vạn An hoàn toàn chìm dưới mặt nước biển, thuộc thềm lục địa Việt Nam và không liên quan gì đến quần đảo Trường Sa, nơi các thực thể không có thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế như Tòa Trọng tài đã phán xử", ông Sơn nhấn mạnh.
Chủ tịch VSIL khẳng định việc tồn tại tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa không thể dẫn đến việc phát sinh bất kỳ sự chồng lấn nào giữa vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được tính từ bờ biển lục địa của Việt Nam, với lãnh hải của bất kỳ thực thể luôn nổi nào thuộc quần đảo Trường Sa.
"Nói một cách khác, nguyên tắc 'đất thống trị biển' mà ông nêu ra không có 'đất' để áp dụng, cũng như không có vùng biển chồng lấn để giải quyết tranh chấp", ông Sơn nói.
Ông Sơn khẳng định khu vực Nam Biển Đông của Việt Nam, nơi Trung Quốc điều tàu Địa chất Hải Dương 8 đến hoạt động từ đầu tháng 7, là khu vực không thuộc Trường Sa, cả về địa lý và pháp lý, nên không liên quan gì đến "chủ quyền ở Trường Sa".
Trước đó, Chủ tịch Hội luật quốc tế Trung Quốc phê phán ông Sơn "lảng tránh vấn đề chủ quyền lãnh thổ với Trường Sa" trong thư ngỏ ngày 24/8.
Chủ tịch VSIL mong muốn Việt Nam và Trung Quốc có thể thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị để giải quyết các tranh chấp bất đồng còn tồn tại. Tuy nhiên, ông khẳng định không có bất kỳ nội dung nào trong Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 2011 hay DOC năm 2002 cũng như các thỏa thuận song phương cho thấy các nước bị "hạn chế quyền lựa chọn biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp".
Các quyền này đã được luật pháp quốc tế công nhận và cho phép, đặc biệt là Hiến chương Liên Hợp Quốc (Điều 33) và UNCLOS.
Chủ tịch VSIL cũng bác bỏ lý lẽ của người đồng cấp Trung Quốc rằng Việt Nam "từng bước chiếm đóng phi pháp một số đảo và bãi ngầm thuộc Trường Sa" từ những năm 1970 và "đó là nguyên nhân gây ra tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước".
Theo ông Sơn, Việt Nam đã thực thi chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ 17. Chúa Nguyễn đã cử các đội Hoàng Sa - Bắc Hải ra khai thác ở hai quần đảo này. Các hoàng đế nhà Nguyễn cũng cử các đội hải quân ra về bản đồ, cắm cột mốc chủ quyền trên hai quần đảo.
Trong giai đoạn chủ nghĩa thực dân thống trị, nước Pháp thay mặt Việt Nam quản lý Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam Cộng hòa tiếp quản và quản lý hai quần đảo này từ nước Pháp theo quy định của Hiệp định Geneva năm 1954.
Việc tiếp quản quần đảo Trường Sa năm 1975 và những hoạt động bình thường của Việt Nam trong khu vực quần đảo Trường Sa sau khi đất nước đã hòa bình, thống nhất là hoàn toàn phù hợp với luật quốc tế và không có một quốc gia nào phản đối, kể cả Trung Quốc.
Chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa được nhiều luật gia, sử gia quốc tế phân tích và công nhận. Một trong số đó là cuốn sách "Sovereignty over the Paracel and Spratly Islands" của giáo sư luật quốc tế người Pháp Monique Chemillier-Gendreau xuất bản lần đầu bằng tiếng Pháp năm 1986 (bản dịch tiếng Anh năm 2000).
"Do đó, sự quản lý của Việt Nam sao có thể nói là phi pháp được", ông Sơn lập luận.
Chủ tịch VSIL cũng lên án Trung Quốc dùng vũ lực vào năm 1974 và 1988 chiếm một số đảo và thực thể ở Hoàng Sa và Trường Sa, là hành động bị luật quốc tế nghiêm cấm. Việc Trung Quốc từng bước xây các đảo nhân tạo và quân sự hoá bất hợp pháp một số đảo đá và bãi cạn thuộc khu vực quần đảo Trường Sa chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình căng thẳng, đe dọa hoà bình và ổn định tại Biển Đông và trong khu vực.
"Chẳng lẽ những hành động bị các quốc gia trên thế giới và Việt Nam lên án đó lại có thể gọi là hợp pháp, tạo thành cơ sở cho phía Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo và rồi sử dụng nó để đòi hỏi một vùng biển rộng lớn chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam được xác lập phù hợp với UNCLOS", ông Sơn đặt câu hỏi.
Chủ tịch VSIL cho rằng các trao đổi khoa học sẽ góp phần giúp người dân Việt Nam và Trung Quốc, cùng cộng đồng quốc tế có cái nhìn toàn diện và chính xác về nguyên nhân và giải pháp cho tình hình căng thẳng hiện nay ở Biển Đông.
"Để biến Biển Đông thành 'sự kết nối tất cả các bên' như Chủ tịch Hội luật quốc tế Trung Quốc đề xuất, mỗi bên khi tiến hành những hoạt động trên biển phải tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của các bên đối tác khác, trân trọng lịch sử quan hệ hữu nghị mà các bên đã dày công vun đắp và tuyệt đối tuân thủ luật quốc tế", ông Sơn nói.
Sau gần 4 tháng hoạt động trái phép, hôm 24/10, tàu khảo sát Địa chất Hải Dương 8 của Trung Quốc đã rời vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, theo Reuters.