Khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm, như bao sinh viên khác thầy được phân công nhận nhiệm sở tại Sài Gòn. Với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, thầy từ chối nhận công tác tại thành phố, tình nguyện về miền quê hẻo lánh để bắt đầu sự nghiệp trồng người. Mười mấy năm sau, thầy trở lại Sài Gòn để vừa có thời gian phụng dưỡng cha mẹ già vừa tiếp tục công việc giáo dục. Nhờ thế mà tôi đã có cơ duyên là học trò của thầy trong suốt mười hai năm học phổ thông.
Ngày đó, khi còn là học sinh tiểu học, tôi là một cô bé nhút nhát, gầy nhom, trong giờ học hiếm khi xung phong phát biểu. Một chiều nọ, sau giờ tan học, cô chủ nhiệm đã gặp gỡ mẹ tôi. Cô giới thiệu một người thầy và khuyên mẹ tôi nên cho tôi đến với thầy để được kèm cập thêm. Thầy là người có tiếng rất nghiêm khắc, nên tôi rất lo sợ khi mẹ nói sẽ gửi gắm tôi cho thầy dạy bảo.
Thế là sau nhiều lần thuyết phục, tôi đã đồng ý để mẹ dẫn sang thầy. Buổi học đầu tiên tại nhà thầy làm tôi nhớ mãi. Thầy bảo chúng tôi hãy vẽ bất cứ điều gì mà mình muốn, tôi nhớ rất rõ là mình đã vẽ tranh phong cảnh có ông mặt trời, ngôi nhà và cây. Sau khi nhìn tác phẩm đầu tay của tôi, thầy vẽ thêm đám mây trắng trôi lững lờ, vài chú vịt con đang bơi lạch bạch dưới bờ ao bên hông ngôi nhà, một vài giọt mưa thoáng thoáng rơi…
Khi tôi vừa tô màu thì thầy vừa giải thích ông mặt trời như chữ o tròn, đám mây giống hình số tám, chú vịt hao hao giống số hai, hạt mưa rơi nghiêng nghiêng tựa dấu sắc hoặc dấu huyền… cứ như thế từng lời thầy giảng thông qua những hình vẽ mà tất cả chúng tôi đã nhớ bài lúc nào không hay. Nhờ thầy dạy dỗ tận tâm, nên sức học của tôi ngày càng tiến bộ.
Năm tháng trôi qua, đến hết cấp tiểu học, bạn bè tôi học trường lớp mới, thầy mới, nhưng ngày ngày tôi vẫn học với thầy vì tôi yêu thích những giờ ngoại khóa. Thầy không những dạy chữ nghĩa mà còn truyền tải những lời khuyên, lời dạy thông qua những câu chuyện cổ tích hoặc những câu chuyện về cuộc sống hàng ngày, cách đối nhân xử thế và còn có cả những tấm gương hiếu thảo trong “Nhị thập tứ hiếu” như hình ảnh như Ngô Mãnh cởi áo chịu muỗi đốt để cha mẹ yên giấc lành, hay cậu bé Dương Hương dũng cảm đấu với hổ để cứu mạng cha… đã trở thành những bài học đáng nhớ.
Nghe tôi kể lại chuyện lớp mình có một số bạn nhà nghèo, thầy bảo tôi cứ rủ các bạn ấy đến nhà thầy dạy miễn phí. Không những thế thầy còn dạy dỗ rất nhiều bạn nhỏ gia đình khó khăn hoặc neo đơn trong khu phố. Tiếng lành đồn xa, “Lớp học tình thương” do thầy phụ trách ngày một đông hơn. Vào mỗi cuối năm học, khi cầm trên tay quyển sổ liên lạc, tôi đều gặp thầy trước tiên để khoe thành tích.
Khoảng thời gian cuối cấp ba cũng là lúc chúng tôi rất băn khoăn về việc chọn nghề nghiệp trong tương lai, chính thầy là người định hướng cho chúng tôi lựa chọn ngành nghề phù hợp với năng khiếu, sở thích và niềm đam mê của từng người. Thầy từng chia sẻ, cuộc đời ai cũng từng một lần ước mơ, dù đó chỉ là những điều bình dị nhất trong cuộc sống. Ước mơ giúp con người nuôi dưỡng niềm tin, là động lực tạo sức mạnh để họ vượt qua khó khăn, trở ngại trước mắt và đạt mục tiêu đề ra cho bản thân, cho tương lai của mình. Cứ thế, thời gian dần trôi qua, “Người chèo đò” ấy vẫn mải miết đưa từng lớp học trò lần lượt “qua sông” và trở thành những người có ích cho xã hội.
Ba năm trước kia, cứ đến gần Ngày nhà giáo Việt Nam tôi đều đến Đại học Y dược để thăm thầy, có lần tôi nhìn thấy một tấm bưu thiếp và con hạc giấy màu trắng của bạn sinh viên nào đó đã gửi thầy: “Cháu nghĩ gấp hạc cũng như vun vén một tình yêu, cháu nhẹ nhàng, nâng niu để cố gắng xếp được chú hạc đẹp nhất. Cháu hy vọng ông sẽ thích. Chúc ông ngày 20/11 thật hạnh phúc!”. Những lần thăm thầy ở Đại học Y dược ngày ấy, giữa hai thầy trò chúng tôi không có lời nói, không cử chỉ điệu bộ, chỉ có ánh mắt tôi hướng về thầy mà thôi…
Thời gian trôi nhanh thật, đã bốn năm rồi tôi không còn được gặp thầy nữa, dù rằng tôi ước ao chỉ cần được nhìn thấy dáng hình của thầy như ba năm trước đây ở Đại học Y dược mà thôi. Tôi nhớ thầy nhiều nhiều lắm, bởi vì người thầy ấy cũng chính là người cha kính yêu của tôi, bởi lẽ tro cốt của cha tôi đã được hỏa táng sau khi đã hoàn thành sứ mạng của một người thầy thầm lặng.
Di nguyện của cha tôi trước lúc lâm chung, chỉ có một điều duy nhất: “Ông vẫn muốn được làm thầy giáo, muốn hiến xác cho ngành Y học nước nhà, để các em sinh viên y khoa có thể học hành, nghiên cứu”. Giờ đây, khi đã trưởng thành, khi tôi viết những dòng này, tôi càng thấm thía từng lời thầy đã dạy dỗ ngày nào, tôi thành tâm kính gửi đến người cha, người thầy, một người lái đò mải miết giữa dòng đời xuôi ngược một lời tri ân sâu sắc.
Phạm Thu Quê Hương
96/7 Phan Đình Phùng, phường 2, quận Phú Nhuận, TP HCM