Nguyễn Ngọc Tư -
Tuy chỉ là "bình mới rượu cũ" nhưng vì là rượu thật, rượu ngon nên người "uống" phải tấm tắc khen.
Tên sách: Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư
NXB Trẻ - Thời Báo kinh tế Sài Gòn, 12/2005.
Nói "bình mới rượu cũ" vì quyển tạp văn này chỉ là một tập hợp những bài Nguyễn Ngọc Tư đã đăng trên báo. Chị không ít lần phải xin lỗi độc giả việc vài NXB thỉnh thoảng lại tập hợp những truyện chị đã đăng, đã in thành một tập sách mới. Khi biết mọi người kéo nhau đi mua, chị áy náy, lỡ người xem phật ý... Thế nhưng, nếu là người yêu văn Nguyễn Ngọc Tư, vô tình đọc lại những gì chị viết cũng đâu thừa. Với quyển tạp văn này cũng vậy, đã liếc qua đâu đó trên báo, tạp chí rồi, đọc lại vẫn thấm thía giọng văn sâu thẫm tình quê của một nhà văn có bút lực dồi dào cả về ý tưởng lẫn cảm xúc.
Chính vì thế, sau đợt xuất bản đầu tiên với số lượng 2.000 cuốn vào cuối năm 2005, đầu tháng 1/2006, sách đã được tái bản với số lượng 5.000 cuốn và hiện nằm trong danh mục sách bán chạy của NXB Trẻ.
Thủng thẳng, nhỏ nhẹ như người con gái quê đang vừa hái rau muống vừa kể chuyện, những câu chuyện lúc thì da diết lúc lại hóm hỉnh, tưng tửng, vui vui, tạp văn Nguyễn Ngọc Tư có sự kết hợp rõ nét giữa văn và báo. Nếu như ở truyện ngắn, Nguyễn Ngọc Tư chưa chạm nhiều đến "kinh tế, chính trị" thì trong tạp văn, chị bộc lộ cái nhìn của mình về chuyện lúa chết non, tôm chết lãng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, chuyện giữ đất hay bán đất, chuyện quan lại nhũng nhiễu, hạch sách người dân trong Ngậm ngùi Hưng Mỹ, Đi qua những cơn bão khô, Ngơ ngác mùa dưa, Chờ đợi những mùa tôm, Làm cho biết, Kính thưa anh nhà báo...
Trong quyển tạp văn Nhân trường hợp chị thỏ bông của cây bút Thảo Hảo (nhà văn Phan Thị Vàng Anh) cũng có bài viết về cái khổ của người nông dân trước nạn ốc bươu vàng. Thảo Hảo viết sắc, gọn, đanh, đưa ra những thống kê, bảng so sánh chi tiết, dẫn chứng khoa học cụ thể. Vì thế, đọc Thảo Hảo xong người ta thấy tức tối vì cái sự "mù mắt" của những người có trách nhiệm trước thảm họa ốc bươu làm khổ nông dân.
Nguyễn Ngọc Tư cũng có bài viết về cái khổ của người nông dân trước dịch ốc bươu vàng. Viết không đanh, không sắc nhưng mà sâu, đọng, day dứt: "Tôi đi học xa, chiều thứ bảy về nhà bắt ốc. Cả nhà bắt ốc, cả xóm bắt ốc, cả tỉnh bắt ốc. Lúc sức trẻ tôi rệu rã thì má tôi vẫn chăm chăm từng con ốc theo mỗi bước chân thụt lút dưới sình... phải lượm lại ốc để gieo sạ đợt hai... Má già sọp như trăm ngày góp lại... Mắt tôi nhức, rụng xuống những giọt nước mắt trong và mặn..." (Mơ thấy mùa đang tới).
Tình người, tình quê và chút tình riêng đan xen hoà quyện vào nhau trong Đất Mũi mù xa, Xa Đầm Thị Tường, Quán nhớ, Tháng Chạp ở rạch Bộ Tời, Lời nhắn, Sân nhà... Tôi tin chắc những độc giả thích đọc văn Nguyễn Ngọc Tư không ít lần sẽ thấy sống mũi cay xè khi đọc truyện của chị. Vì người viết đã biết cách đưa vào những chi tiết lay động lòng người. Với tạp văn, Nguyễn Ngọc Tư cũng có được sức rung cảm từ những chi tiết như thế. Đọc hết 35 tạp văn của chị, gấp sách lại vẫn còn vương vấn hình ảnh những người nông dân tảo tần, lam lũ rưng rưng cầm con tôm chết trên tay, hình ảnh chợ quê, cái lu, khạp muối, vườn cây trái xào xạc, món canh măng tre mẹ nấu vàng óng ánh cả trưa hè.
Nhà văn Nam Cao nói: "Sống rồi hãy viết!". Những trang văn của Nguyễn Ngọc Tư đều đi thẳng vào lòng người đọc có lẽ vì chị đang tập sống, nghe, nhìn, trải lòng với miền quê của mình. Chính vì vậy, những trang tạp văn không chỉ để giải trí mà còn để người miền khác hiểu biết về đời sống của một vùng đất, và để cho chính những người sống ở vùng đất đó kịp nhận ra được dù không đi đâu đất cũng hóa tâm hồn.
Có lần trả lời phỏng vấn, Ngọc Tư nói vui: thích viết tạp văn vì nhẹ nhàng và dễ kiếm được ít tiền trang trải cuộc sống hơn viết truyện. Nhưng đọc tạp văn của chị thì không thấy "nhẹ nhàng" chút nào, bởi vì bên trong vỏ bọc của giọng văn đó người ta thấy ẩn sâu nỗi niềm của một người con đất Mũi. Viết vì thương quê, thương cái nghèo, cái khó, cái mộc mạc, chân sơ của nơi mình sinh ra, lớn lên, nơi mình hớp ngụm nước mưa trong lành ở cái lu đầu ngõ, nơi mình hâm nồi cơm nguội buổi chiều, nướng con khô cá lóc, cá sặt, nhấp chén rượu cay mà thương quê đến nao lòng.
Thương quê nghèo đến độ phải thốt lên: "Làm nông dân mà, cực từ đằng Đông, Tây, đem lại, cực từ Nam, Bắc cực vô, cực từ trên trời rơi xuống" (Mơ thấy mùa đang tới). Thế nhưng, than là than vậy trang viết nào kết lại vẫn lấp lánh niềm tin. Bởi vì vốn cái tạng của dân "Hai Lúa" là lạc quan. Tôm chết đợt này, nuôi đợt tôm khác cẩn thận hơn, lúa chết đợt này gieo đợt lúa mới đúng kỹ thuật hơn, đời mình chưa sướng thì làm hết sức để đời con cháu mình sướng hơn.
Nằm trong bộ sách ra mắt bạn đọc cả nước nhân dịp 15 thành lập Thời báo Kinh tế Sài Gòn gồm những cuốn tập hợp nhiều bài viết, nhận định, đánh giá mang tính chuyên môn cao của những doanh nhân, nhà nghiên cứu, khoa học nổi tiếng về kinh tế Việt Nam, tưởng như Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư rất lạc loài. Thế nhưng, đọc rồi mới thấy những điều chị viết cần thiết lắm, gắn bó lắm với nỗi niềm đau đáu chung của những nhà khoa học cho sự phát triển của nước nhà (Để nông dân giàu lên - Võ Tòng Xuân, Doanh nhân, doanh nghiệp và cải cách kinh tế - TS Lê Đăng Doanh, Góp vào đổi mới - Nhiều tác giả...).
Thanh Vân