Berdiaev, Nikolai Aleksandrovich -
|
Berdiaev Nikolai Aleksandrovich (1874-1948) là một triết gia Nga lớn mà tên tuổi được cả thế giới biết đến. Sinh trưởng trong một gia đình quý tộc trâm anh thế phiệt, Berdiaev thời trẻ hấp thụ ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác, tham gia hoạt động cách mạng và nhiều lần bị tù đày. Thế giới quan duy tâm chủ nghĩa đã dần dần khiến ông khẳng định mình như một nhà triết học tôn giáo tiếp tục sự nghiệp của Vladimir Soloviev. Cùng với một loạt nhà tư tưởng Nga khác, sáng tác của Berdiaev đã đánh dấu một giai đoạn khởi sắc mới, mãnh liệt của nền triết học Nga trong những thập niên đầu thế kỉ XX. Năm 1922 do bất đồng ý kiến với chính thể mới, Berdiaev bị trục xuất ra nước ngoài. Từ 1925 đến khi qua đời ông sống ở Paris (Pháp), tham gia rất hiệu năng đời sống tinh thần không chỉ của giới trí thức Nga hải ngoại, mà còn của cả xã hội Tây Âu nói chung. Lừng danh nhất trong các triết gia Nga thời hiện đại, Berdiaev thường được suy tôn là một trong những tiền khu lỗi lạc của chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa nhân vị - hai trào lưu tư tưởng có quy mô ảnh hưởng toàn cầu trong thế kỉ qua. Tự Do và Bản Ngã là cảm hứng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ sáng tác của ông. Trong gần nửa thế kỉ cầm bút, Berdiaev viết khá nhiều về đất nước của mình. Sự vĩ đại của nền văn hóa Nga, sứ mệnh lịch sử của nước Nga, những mâu thuẫn nội tại gay gắt của tâm hồn Nga dẫn đến những bi kịch mà dân tộc Nga đã phải nếm trải - những vấn đề ấy suốt đời thu hút trí não Berdiaev, thôi thúc ông tìm kiếm những giải đáp triết học nằm ngoài lĩnh vực kinh tế-xã hội. Trong số này, tạp chí VHNN giới thiệu với bạn đọc hai chương triết luận về nước Nga trong hai cuốn sách của Berdiaev - Số phận nước Nga (1918) và Thế giới quan Dostoievski (1923). Về những chủ kiến được thể hiện trong hai chương sách mang tinh thần tự nhận thức dân tộc này có thể có những ý kiến khác nhau, một điều khó phủ định là chúng thuộc về một trí tuệ lớn, yêu nồng nàn dân tộc, đất nước mình, tha thiết với sứ mệnh chân chính của nó và vì thế mà phê phán không khoan dung những mặt bất hoàn hảo ở nó. Nhiều suy nghĩ tỉnh táo, quả cảm, nhìn xa thấy rộng của Berdiaev về dân tộc mình đến nay vẫn chưa mất giá trị. |
1
Cuộc đại chiến thế giới đặt ra vấn đề tự nhận thức của dân tộc Nga một cách sâu sắc. Tư duy dân tộc Nga cảm thấy nhu cầu và nghĩa vụ giải đáp câu đố về nước Nga, thấu hiểu tư tưởng của nước Nga, xác định nhiệm vụ và vị trí của nó trong thế giới. Vào ngày hôm nay của thế giới, tất cả đều cảm thấy nước Nga đang đứng trước những nhiệm vụ vĩ đại mang tính toàn cầu. Nhưng cảm giác sâu sắc này song hành với ý thức về tính vô định, hầu như không thể xác định của những nhiệm vụ ấy. Từ thời xa xưa đã có những linh cảm rằng nước Nga được tiền định cho một điều gì đó vĩ đại, rằng nước Nga là một đất nước đặc biệt, không giống bất cứ nước nào trên thế giới. Tư duy dân tộc Nga được nuôi dưỡng bởi cảm giác nước Nga đã được Chúa tuyển chọn và mang sứ mệnh của Chúa. Điều đó xuất phát từ tư tưởng xa xưa về Moskva, như một La Mã thứ Ba, thông qua chủ nghĩa Slavơ đến với Dostoievski, Vladimir Soloviev và đến những người tân Slavơ chủ nghĩa đưng đại. Những tư tưởng kiểu ấy chứa đựng nhiều sai lạc và hư trá, nhưng trong chúng cũng phản ánh điều gì đó đích thực dân tộc, đích thực Nga. Một người không thể suốt đời cảm thấy một sứ mệnh đặc biệt và vĩ đại nào đó và ý thức sâu sắc điều ấy trong những giai đoạn hưng phấn nhất của tinh thần, nếu người ấy không được đòi hỏi và tiền định cho một cái gì đó lớn lao. Về mặt sinh học điều ấy là không thể. Điều ấy cũng không thể đối với cuộc sống của cả một dân tộc. Giờ khắc đó của lịch sử thế giới đã điểm, khi chủng tộc Slavơ đứng đầu là nước Nga được yêu cầu đóng vai trò quyết định trong đời sống nhân loại. Chủng tộc Đức tiên tiến đã tự kiệt quệ trong chủ nghĩa đế quốc quân phiệt. Nhiều người nhạy cảm ở phưng Tây cũng đã tiên cảm thấy sứ mệnh của chủng tộc Slavơ. Nhưng việc thực hiện những nhiệm vụ thế giới của nước Nga không thể phó mặc cho sự tuỳ tiện của các thế lực tự phát của lịch sử. Cần phải có các nỗ lực sáng tạo của trí tuệ dân tộc và ý chí dân tộc. Và nếu như các dân tộc phương Tây, cuối cùng, bắt buộc phải nhìn thấy gương mặt duy nhất của nước Nga và thừa nhận sứ mệnh của nó, thì vẫn là mơ hồ việc bản thân chúng ta có ý thức được hay không nước Nga là gì và nó được đòi hỏi làm điều gì? Đối với bản thân chúng ta nước Nga, vẫn mãi còn là bí mật không thể giải đáp nổi. Nước Nga đầy mâu thuẫn và trái nghịch. Tâm hồn nước Nga không bị che phủ bởi bất kỳ học thuyết nào. Tiutchev đã nói về nước Nga của mình:
"Bằng trí óc không thể hiểu nước Nga,
Không thể đo bằng thước đo chung:
Nước Nga có dáng dấp đặc biệt -
Chỉ có thể tin vào nước Nga"
Và thực sự, có thể nói rằng, nước Nga không thể ý thức được bằng trí óc, cũng không thể đo được bằng bất kỳ thước đo nào của các thứ chủ nghĩa và học thuyết. Còn tin tưởng nước Nga thì mỗi người theo một kiểu và mỗi người sẽ tìm thấy trong sự tồn tại đầy mâu thuẫn của nước Nga các sự kiện để khẳng định niềm tin của mình. Có thể tiến gần đến việc giải đố bí mật ẩn chứa trong tâm hồn nước Nga ngay lập tức, sau khi đã công nhận tính trái nghịch của nó, tính mâu thuẫn khủng khiếp của nó. Khi đó tinh thần tự ý thức Nga được giải phóng khỏi những sự lý tưởng hoá giả tạo và dối trá, khỏi thói tự phụ đáng ghét, cũng như khỏi sự phủ định của chủ nghĩa thế giới vô bản ngã và sự nô lệ vào ngoại bang.
Nước Nga là đất nước vô nhà nước, vô chính phủ nhất trên thế giới. Và dân tộc Nga là dân tộc phi chính trị nhất, dân tộc không bao giờ biết sắp đặt mảnh đất của mình. Tất cả các nhà văn, nhà tư tưởng, nhà chính luận dân tộc của chúng ta, những con người đích thực Nga – thảy đều là những người phi nhà nước, những kẻ vô chính phủ theo kiểu đặc biệt. Chủ nghĩa vô chính phủ là hiện tượng của tinh thần Nga, là thuộc tính của cả những người cực tả và cực hữu theo các cách khác nhau. Những người theo chủ nghĩa Slavơ và Dostoievski – về bản chất chính là những người vô chính phủ như vậy, cũng như Mikhail Bakunin hay Kropotkin. Cái bản tính vô chính phủ Nga ấy tìm cho mình sự thể hiện điển hình trong chủ nghĩa vô chính phủ tôn giáo của Lev Tolstoi. Giới trí thức Nga, mặc dù đã lây nhiễm những tư tưởng thực chứng chủ nghĩa hời hợt, vẫn mãi là thuần tuý Nga về tính phi nhà nước của mình. Ở phần tốt đẹp nhất, phần anh hùng của mình, họ khao khát vươn tới sự tự do tuyệt đối và chân lý, thứ thường không thể dung thân trong bất kỳ nhà nước nào. Chủ nghĩa dân tuý của chúng ta,- một hiện tượng điển hình Nga, xa lạ với Tây Âu – là hiện tượng của tinh thần phi nhà nước. Những người theo chủ nghĩa tự do Nga thường là những nhà nhân văn, hơn là những quan chức nhà nước. Không một ai ham hố quyền lực, tất cả đều sợ quyền lực như sợ sự nhơ bẩn. Hệ tư tưởng Chính giáo của chế độ quân chủ chuyên chế chúng ta cũng vẫn là hiện tượng của tinh thần phi nhà nước, là sự khước từ của nhân dân và xã hội việc tạo lập một đời sống nhà nước. Những người theo chủ nghĩa Slavơ ý thức rằng học thuyết của họ về chế độ quân chủ là một hình thức độc đáo phủ định nhà nước. Bất kỳ hệ thống nhà nước nào cũng đều mang tính thực tế và duy lý. Tâm hồn Nga ước muốn một tính cộng đồng thiêng liêng, một quyền lực do Chúa đặc tuyển. Bn tính dân tộc Nga được thừa nhận là khổ hạnh, khước từ những công việc và hạnh phúc trần thế. Các trào lưu tả khuynh và cách mạng của chúng ta còn chưa khác biệt sâu sắc với các trào lưu hữu khuynh và Slavơ chủ nghĩa trong thái độ đối với nhà nước,- trong chúng còn có một liều lượng đáng kể chủ nghĩa Slavơ và tinh thần khổ hạnh. Các nhà tư tưởng về nhà nước, như Katkov hay Chicherin, luôn dường như không phải người Nga, mà là những người ngoại quốc nào đó trên đất Nga; giới quan liêu đang điều hành công việc quốc gia,- công việc không phải chất Nga,- luôn giống như những người nước ngoài, không phải người Nga. Trong cốt lõi của lịch sử Nga là một truyền thuyết quan trọng về sự mời gọi những kẻ ngoại bang đến điều hành nước Nga, bởi vì "đất của chúng ta rộng lớn và phì nhiêu, nhưng trên đó không có trật tự". Điều đó thật điển hình cho sự thiếu năng lực có tính số kiếp và sự không ham hố của dân tộc Nga trong việc tự mình sắp đặt trật tự trên mảnh đất của mình! Dân tộc Nga dường như không hẳn chỉ muốn một nhà nước tự do và tự do trong nhà nước, mà đúng hơn là muốn tự do khỏi nhà nước và tự do khỏi các mối bận tâm về xếp đặt trần thế. Dân tộc Nga không muốn làm một nhà kiến tạo dũng cảm, bản tính của nó được xác định như là nữ tính, thụ động và dễ bảo trong các việc quốc gia đại sự, nó luôn chờ đợi một vị hôn phu, một người chồng, một vị chủ nhân. Nước Nga là mảnh đất lệ thuộc, âm tính. Tính nữ thụ động, tiếp nhận trong quan hệ đối với quyền lực nhà nước thật đặc trưng đối với cả dân tộc Nga lẫn đối với lịch sử Nga(*). Sự chịu đựng nhẫn nhịn của dân tộc Nga nhiều thương đau là không có giới hạn. Quyền lực nhà nước luôn luôn chỉ là bề ngoài, chứ chưa phải là nguyên tắc bên trong đối với dân tộc Nga phi nhà nước; quyền lực đó không phải được tạo ra từ trong nó, mà dường như đến từ bên ngoài, như vị hôn phu đến với cô vợ mới cưới. Và vì thế quyền lực thường hay gây cảm giác ngoại lai, như sự bá chủ của nước Đức nào đó. Những người cấp tiến và những kẻ bảo thủ Nga đều suy nghĩ như nhau, rằng nhà nước - đó là "họ", chứ không phi là "chúng ta". Rất điển hình là trong lịch sử Nga không có đẳng cấp hiệp sĩ, không có cái khởi nguồn dũng cảm đó. Gắn liền với tập hợp từ ấy là sự phát triển không đầy đủ của yếu tố cá nhân trong đời sống Nga. Dân tộc Nga luôn thích sống trong hơi ấm tập thể, trong sự hoà tan nào đó vào môi trường thân thuộc của xứ sở, vào lòng mẹ. Tinh thần hiệp sĩ rèn đúc cảm giác phẩm hạnh và danh dự cá nhân, tạo nên sự tôi luyện cá tính. Lịch sử Nga không tạo nên sự tôi luyện cá tính đó. Trong con người Nga có sự nhu nhược, trên khuôn mặt Nga không có tiết diện được đẽo gọt và thanh tú. Platon Karataev của Tolstoi là con người tròn trịa. Chủ nghĩa vô chính phủ Nga là nữ tính, chứ không phải nam tính, thụ động, chứ không chủ động. Và sự nổi loạn của Bakunin là sự chìm đắm trong tính tự phát hỗn độn Nga. Tính phi nhà nước của con người Nga không phải là giành lấy cho mình tự do, mà là cống hiến mình, là được tự do khỏi tính tích cực. Dân tộc Nga muốn làm một mảnh đất được chiếm lĩnh, chờ đợi được lấy chồng. Tất cả những đặc tính đó của nước Nga trở thành cốt lõi của triết học lịch sử của chủ nghĩa Slavơ và các lý tưởng của nó. Nhưng triết học lịch sử Slavơ chủ nghĩa không muốn biết đến tính trái nghịch của nước Nga, nó chỉ lưu tâm đến một luận đề của đời sống Nga. Trong đời sống ấy có phản luận đề. Và nước Nga sẽ chẳng còn bí ẩn đến thế, nếu trong nó chỉ có cái mà chúng ta đang bàn đến bây giờ. Triết học Slavơ chủ nghĩa về lịch sử Nga không giải thích được câu đố vì sao nước Nga lại biến thành đế chế vĩ đại nhất trên thế giới, hoặc giải thích nó một cách đơn giản thái quá. Và lỗi lầm căn bản nhất của chủ nghĩa Slavơ là nó coi những nét bản tính-lịch sử của tố chất Nga như những phẩm hạnh Ki tô giáo.
Nước Nga cũng là đất nước mang tính nhà nước nhất và quan liêu nhất trên thế giới; mọi thứ ở Nga đều biến thành công cụ chính trị. Nhân dân Nga đã tạo lập một nhà nước hùng mạnh nhất thế giới, một đế chế vĩ đại nhất. Từ thời Ivan Kalita nước Nga liên tục và bền bỉ hợp nhất lại và đạt tới quy mô chấn động trí tưởng tượng của mọi dân tộc trên thế giới. Sức mạnh của một dân tộc, mà người ta không thiếu cơ sở để nghĩ rằng nó luôn khát khao hướng tới đời sống tinh thần bên trong, lại được hiến dâng cho tên khổng lồ nhà nước, và hắn biến tất cả thành công cụ của mình. Những quan tâm đến việc tạo dựng, duy trì và gìn giữ một nhà nước khổng lồ đã chiếm vị trí hoàn toàn đặc biệt và lấn át trong lịch sử Nga.
Người dân Nga hầu như chẳng còn sức lực dành cho cuộc sống sáng tạo tự do, toàn bộ bầu máu nóng là dùng để củng cố và bảo vệ nhà nước. Các tầng lớp và giai cấp phát triển yếu ớt và không đóng được vai trò mà chúng đóng trong lịch sử các nước phương Tây. Cá nhân bị đè bẹp bởi kích thước to lớn của một nhà nước luôn đưa ra những đòi hỏi quá sức. Tầng lớp quan liêu phát triển đến quy mô quái đản. Tổ chức nhà nước ở Nga giữ vị trí canh chừng và phòng thủ. Nó được tôi luyện trong cuộc đấu tranh với những người Tac-ta, vào những thời loạn lạc, trong các cuộc xâm lấn của ngoại bang. Và nó biến thành một nhân tố tự thân trừu tượng; nó sống bằng cuộc sống của chính mình, theo quy luật của mình, không muốn trở thành một chức năng phụ thuộc vào đời sống dân tộc. Điểm đặc biệt này của lịch sử Nga in lên đời sống Nga một dấu ấn buồn bã và đè nén. Không thể có sự chơi giỡn tự do cho các sức mạnh sáng tạo của con người. Quyền lực của giới quan liêu trong đời sống Nga đã tạo nên cuộc xâm lăng bên trong của tinh thần Đức.Tinh thần Đức bằng cách nào đó đã hoà nhập một cách hữu cơ với tính chất nhà nước Nga và làm chủ tố chất nữ tính và thụ động Nga. Mảnh đất Nga đã chọn không đúng người chồng chưa cưới, nó nhầm lẫn trong việc chọn chú rể. Dân tộc Nga đã phải chịu những tổn thất to lớn để lập nên quốc gia Nga, đã đổ biết bao xương máu, nhưng bản thân vẫn là kẻ không có quyền lực ngay trên quốc gia mênh mông của mình. Chủ nghĩa đế quốc, với ý nghĩa tư sản và phương Tây của từ ấy, hoàn toàn xa lạ với dân tộc Nga, nhưng nó vẫn nhẫn nại cống hiến mọi sức lực của mình để xây dựng chủ nghĩa đế quốc, dù con tim nó không mấy hứng thú. Ở đây ẩn chứa bí mật của lịch sử Nga và tâm hồn Nga. Chưa một triết học lịch sử nào, dù theo chủ nghĩa Slavơ hay chủ nghĩa phương Tây, lý giải được tại sao một dân tộc phi nhà nước nhất lại tạo dựng được một nhà nước to lớn nhất và hùng hậu nhất, tại sao một dân tộc vô chính phủ nhất lại thuần phục đến thế trước chủ nghĩa quan liêu, tại sao một dân tộc tự do về tinh thần dường như lại không muốn có một cuộc sống tự do? Bí mật đó gắn liền với mối tương quan đặc biệt giữa nhân tố nữ tính và nam tính trong tính cách dân tộc Nga. Chính tính trái nghịch đó đã xuyên suốt toàn bộ sự tồn tại Nga.
Có sự mâu thuẫn bí ẩn trong thái độ của nước Nga và ý thức Nga đối với tính dân tộc. Đó là sự trái nghịch thứ hai, không nhỏ hơn về mặt ý nghĩa so với thái độ đối với nhà nước. Nước Nga là đất nước ít sô-vanh nhất trên thế giới. Chủ nghĩa dân tộc của chúng ta luôn gây cảm tưởng một cái gì đó không phải Nga, mà là du nhập, một cái gì đó mang chất Đức. Người Đức, người Anh, người Pháp – đại bộ phận là những người sô-vanh và dân tộc chủ nghĩa, họ tràn đầy lòng tự tin dân tộc và tự mãn. Người Nga thì gần như xấu hổ vì họ là người Nga; họ xa lạ với lòng tự hào dân tộc và thậm chí – than ôi! – thường xa lạ với phẩm giá dân tộc. Dân tộc Nga hoàn toàn không mang óc chủ nghĩa dân tộc xâm lược, không có thiên hướng Nga hoá cưỡng bức. Người Nga không chơi trội, không phô diễn, không khinh thường người khác. Trong tố chất Nga thực sự có tính hào hiệp dân tộc nào đó, đức hy sinh mà các dân tộc phương Tây không biết đến. Giới trí thức Nga luôn có thái độ ghê tởm đối với chủ nghĩa dân tộc và khinh miệt nó như đồ dơ bẩn. Nó tin vào những lý tưởng hoàn toàn vượt trên dân tộc. Và dù các học thuyết về chủ nghĩa thế giới của giới trí thức có hời hợt hoặc vô vị đến đâu, thì tuy nhiên trong chúng cũng phản ánh, tuy có bóp méo, tinh thần siêu dân tộc, nhân loại đại đồng của dân tộc Nga. Các trí thức ly khai thật sự là những nhà dân tộc hơn bất kỳ một nhà dân tộc tư sản nào của chúng ta, về diện mạo đã giống như các nhà dân tộc tư sản của các nước khác. Một người mang tinh thần khác, không phi tinh thần trí thức ly khai - thiên tài dân tộc Lev Tolstoi - thực sự là con người Nga trong khát vọng tôn giáo muốn vượt qua bất kỳ giới hạn dân tộc nào, bất kỳ sự nặng nề nào của dòng máu dân tộc. Ngay những người Slavơ chủ nghĩa cũng không phải là các nhà dân tộc ở nghĩa thông thường của từ này. Họ muốn tin rằng trong dân tộc Nga tồn tại một tinh thần Ki tô giáo chung cho toàn nhân loại, và họ đề cao dân tộc Nga vì tính khiêm nhường của nó.
Dostoievski đã tuyên bố thẳng rằng con người Nga là con người nhân loại, tinh thần Nga là tinh thần thế giới, và ông hiểu sứ mệnh của nước Nga không như các nhà dân tộc chủ nghĩa hiểu. Chủ nghĩa dân tộc dưới biến thái mới nhất, không nghi ngờ gì, chính là sự Âu hoá nước Nga, là chủ nghĩa phương Tây bảo thủ trên mảnh đất Nga. Và Katkov, nhà tư tưởng theo chủ nghĩa dân tộc, là một người phương Tây, không bao giờ là người thể hiện tinh thần dân tộc Nga. Katkov trở thành kẻ biện hộ và nô lệ cho chất nhà nước xa lạ nào đó, cho "nhân tố trừu tượng" nào đó. Chủ nghĩa siêu dân tộc, chủ nghĩa phổ quát chính là đặc tính căn bản của tinh thần dân tộc Nga, cũng như tính phi nhà nước và tính vô chính phủ. Chính chủ nghĩa siêu dân tộc, sự tự do của nó khỏi chủ nghĩa dân tộc lại mang tính dân tộc ở Nga; về phương diện này nước Nga độc đáo và không giống với bất kỳ nước nào trên thế giới. Nước Nga có sứ mạng là người giải phóng các dân tộc. Sứ mạng ấy nằm trong tinh thần đặc biệt của nó. Và tính chính đáng về các nhiệm vụ thế giới của nước Nga đã được tiền định bởi những sức mạnh tinh thần của lịch sử. Sứ mạng này của nước Nga bộc lộ trong cuộc đại chiến ngày nay. Nước Nga không có những khát vọng vụ lợi.
Đó là một luận đề về nước Nga, mà người ta hoàn toàn có quyền nói ra. Nhưng lại có cả phản luận đề, mà cũng không kém phần xác đáng. Nước Nga là đất nước mang tính dân tộc chủ nghĩa nhất trên thế giới, đất nước của những thái quá hiếm có của chủ nghĩa dân tộc, của sự áp bức các dân tộc phụ thuộc bằng chính sách Nga hoá, đất nước của lòng tự phụ dân tộc, đất nước trong đó mọi sự đều bị dân tộc hoá, kể cả Nhà thờ Ki tô giáo có tính thế giới, đất nước tôn vinh mình là duy nhất mang sứ mạng và phủ nhận cả châu Âu như đồ mục nát và quỷ dữ nhất định sẽ diệt vong. Đối nghịch với lòng khiêm nhường là óc tự phụ bất thường Nga. Kẻ khiêm nhường nhất cũng là người vĩ đại nhất, hùng mạnh nhất, duy nhất mang sứ mạng. "Nga" cũng có nghĩa là công bằng, tốt bụng, chân chính, thần thánh. Nước Nga là "Nga thánh thiện". Nước Nga tội lỗi, nhưng cả trong tội lỗi của mình nó vẫn là đất nước thánh thiện,- đất nước của các vị thánh, sống bằng những lý tưởng thiêng liêng. Vl.Soloviev đã cười nhạo đức tự tin của lòng tự phụ dân tộc Nga rằng tất cả các vị thánh đều nói tiếng Nga. Vẫn Dostoevski ấy, người cổ xuý cho con người nhân loại và kêu gọi hướng tới tinh thần thế giới, cũng tuyên truyền cho một chủ nghĩa dân tộc cuồng tín nhất, chà đạp người Ba Lan và Do Thái, phủ nhận ở phương Tây mọi quyền được trở thành thế giới Ki tô giáo. Lòng tự phụ dân tộc Nga thường thể hiện ở chỗ nước Nga tôn vinh mình không chỉ là đất nước mang tính Ki tô giáo nhất, mà còn là đất nước Ki tô giáo duy nhất trên thế giới. Công giáo hoàn toàn không được công nhận là Ki tô giáo. Ngay ở đây luôn luôn chứa đựng một trong các nguồn gốc tinh thần của thái độ sai lầm đối với vấn đề Ba Lan. Nước Nga, về mặt tinh thần có sứ mệnh làm người giải phóng các dân tộc, lại thường trở thành kẻ áp bức, và vì thế nó tạo nên lòng thù địch và sự nghi ngờ đối với bản thân mình, những điều chúng ta cho đến nay vẫn phải chiến thắng.
Lịch sử Nga thể hiện một cảnh tượng hoàn toàn phi thường - sự dân tộc hoá triệt để nhất nhà thờ Ki tô giáo, cái nhà thờ được coi là của toàn thế giới. Chủ nghĩa dân tộc trong nhà thờ là một hiện tượng điển hình Nga. Toàn bộ giáo phái theo nghi lễ cổ của chúng ta thấm đẫm nó. Nhưng cái chủ nghĩa dân tộc ấy còn thống trị cả trong nhà thờ chính thống. Thứ chủ nghĩa dân tộc ấy thấm sâu cả vào hệ tư tưởng Slavơ chủ nghĩa, hệ tư tưởng luôn đánh tráo tính thế giới bằng tính Nga. Tinh thần thế giới của Đức Ki tô, bản nguyên Logos nam tính của toàn thế giới bị tố chất dân tộc nữ tính, bị mảnh đất Nga với tính hoang sơ đa thần giáo của nó cầm tù. Vì thế mà hình thành thứ tôn giáo hoà tan trong đất mẹ, trong tố chất dân tộc tập thể, trong hơi ấm lòng mẹ. Tính tôn giáo Nga - thứ tôn giáo nữ tính, - là tính tôn giáo của hơi ấm sinh học tập thể, được trải nghiệm như hơi ấm thần bí. Trong đó yếu tố tôn giáo cá nhân phát triển yếu ớt; nó sợ bước ra khỏi hơi ấm tập thể đi vào cái lạnh lẽo và nóng bỏng của tôn giáo cá nhân. Tính tôn giáo đó khước từ con đường tinh thần tích cực, dũng cảm. Đó không hẳn là tôn giáo của Đức Ki tô, mà đúng hơn là tôn giáo của Đức Mẹ, tôn giáo của mẹ-đất, nữ thánh linh soi rọi đời sống xác thịt. V.V.Rozanov về phương diện nào đó là người thể hiện thiên tài cái tôn giáo máu mủ dòng tộc Nga này, thứ tôn giáo phồn sinh và ấm cúng. Mẹ-đất đối với dân tộc Nga là nước Nga. Nước Nga trở thành Đức Mẹ. Nước Nga là đất nước mang vác Chúa. Tính tôn giáo mang tố chất dân tộc nữ tính ấy phải được giao phó cho những bậc trượng phu, họ sẽ nhận về mình gánh nặng của năng động tinh thần, mang vác cây thánh giá, chèo lái về mặt tinh thần. Và dân tộc Nga trong đời sống tôn giáo đã phó thác cho những vị thánh, các cha bề trên, những bậc trượng phu mà trong quan hệ với họ chỉ có sự sùng bái như đứng trước tranh thánh là thích hợp. Dân tộc Nga thậm chí không dám cả gan nghĩ rằng có thể bắt chước các thánh, rằng tính thần thánh là con đường bên trong của tinh thần,- điều đó dường như quá dũng cảm và hỗn hào. Dân tộc Nga muốn không hẳn sự thần thánh, mà đúng hơn là sự sùng bái và ngưỡng mộ trước cái thần thánh, cũng giống như nó muốn không phải quyền lực, mà là sự hiến dâng mình cho quyền lực, chuyển giao cho quyền lực tất cả mọi gánh nặng. Dân tộc Nga đa phần là lười biếng trong thăng hoa tôn giáo, tính tôn giáo của nó là bằng phẳng bình nguyên, chứ không phải là đồi núi; sự nhún nhường tập thể đối với nó dễ dàng hơn là sự tôi luyện tôn giáo cá nhân, hơn là hy sinh sự ấm áp và vui vầy của cuộc sống dân tộc tự nhiên. Vì đức tính khiêm nhường của mình dân tộc Nga nhận được phần thưởng là sự ấm cúng và vui vầy đó của cuộc sống tập thể. Đó là nền tảng dân tộc của việc dân tộc hoá nhà thờ ở Nga. Ở đây có chất pha trộn lớn của tôn giáo tự nhiên, có trước đạo Ki tô - tôn giáo của tinh thần, của cá nhân và tự do. Bản thân tình yêu Ki tô giáo, về cốt lõi mang tính tinh thần và đối nghịch với các mối quan hệ máu mủ, đã được tự nhiên hoá trong thứ tôn giáo này, hướng tình yêu vào người "của mình". Cứ thế mà thứ tôn giáo huyết thống, chứ không phi tôn giáo tinh thần được củng cố, cứ thế mà pháo đài của chủ nghĩa duy vật tôn giáo được bảo tồn. Trên bình nguyên Nga bao la mọc lên các nhà thờ, các vị thánh và cha bề trên thăng thượng, nhưng nền đất của bình nguyên vẫn còn là tự nhiên, đời sống vẫn là đa thần giáo.
Sự nghiệp lớn mà Vladimir Soloviev tiến hành đối với ý thức Nga trước hết cần nhìn nhận trong sự phê phán không thương xót của ông đối với chủ nghĩa dân tộc nhà thờ, trong lời kêu gọi không ngừng nghỉ hướng tới tinh thần nhân loại của Đức Ki tô, tới việc giải phóng tinh thần của Ki tô khỏi tù ngục của tố chất dân tộc, tố chất tự nhiên. Trong phản ứng chống lại chủ nghĩa dân tộc nhà thờ, Vl. Soloviev hơi quá thiên về Công giáo, nhưng chân lý vĩ đại trong các khát vọng và động cơ chủ yếu của ông là không thể nghi ngờ và sẽ còn được nước Nga thừa nhận. Vl. Soloviev là thứ thuốc giải độc đích thực chống lại phản luận đề dân tộc chủ nghĩa của tồn tại Nga. Chân lý Ki tô giáo của ông trong việc giải quyết vấn đề Ba Lan và Do Thái luôn luôn phải đặt đối lập với sự sai lầm của Dostoievski. Chủ nghĩa dân tộc nhà thờ sẽ dẫn đến sự nô dịch nhà nước vào nhà thờ. Nhà thờ, một cơ chế tinh thần, thần bí, đã thụ động hiến mình cho quyền lực của hội đồng thánh giáo kiểu Đức. Sự trái nghịch bí ẩn của nước Nga trong thái độ đối với tính dân tộc vẫn gắn liền với chính mối tương quan không chuẩn xác giữa nhân tố nam tính và nữ tính ấy, với sự phát triển chưa đầy đủ và chưa bộc lộ hết của yếu tố Ngã Thể sinh ra trong Chúa Ki tô và có sứ mệnh trở thành vị hôn phu, trở thành người chồng soi rọi ánh sáng cho tố chất dân tộc nữ tính, chứ không phải trở thành nô lệ của nó.
Còn tiếp
(Nguồn: Tạp chí Văn học Nước ngoài, số 6, 2003)