Trẻ bị yếu thính giác thường ít phản ứng với tiếng động xung quanh. |
Chị Heather Young rất lo lắng vì Jennifer, đứa con gái 6 tuần tuổi của mình, không phản ứng với những tiếng động lớn như tiếng máy hút bụi, đồng hồ báo thức. Nhưng khi bác sĩ thực hiện thí nghiệm rung chuông gần tai, Jennifer đã quay đầu về phía tiếng chuông. Vì vậy, vị bác sĩ khẳng định con chị vẫn bình thường như những đứa trẻ khác.
Đến 18 tháng tuổi, Jennifer vẫn không nói chuyện được dù các bác sĩ không tìm thấy vấn đề gì trong sức khỏe đứa trẻ. Lúc 2 tuổi rưỡi, khi được thử nghiệm bằng phương pháp ABR (truyền âm thanh qua ống nghe chụp tai rồi đo các phản ứng ở não), bé mới được phát hiện là suy yếu thính giác, tuy chưa đến độ điếc đặc. Nghi ngờ Elese, đứa con thứ hai, cũng bị suy thính giác, Heather đã cho bé thử nghiệm lắc chuông và nhiều thử nghiệm khác nhưng không phát hiện vấn đề gì. Chỉ khi thử nghiệm ABR sau đó 1 năm, bác sĩ mới biết cô bé này còn điếc nặng hơn chị.
Suy yếu thính giác là một trong những khiếm khuyết phổ biến ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ hiện nay. Tại Mỹ, cứ 1.000 đứa trẻ thì có 3 đứa bị điếc bẩm sinh hoặc yếu thính giác. Chứng bệnh này không dễ phát hiện bằng các thử nghiệm thông thường. Theo ông Robert Fifer, chuyên gia về thính giác của Đại học Miami, rất khó nhận thấy sự khác nhau giữa một đứa bé 3 tháng tuổi thính giác bình thường và một đứa bé điếc cũng ở độ tuổi đó. Còn bác sĩ Cliff Megerian thuộc Đại học Massachusetts cho biết, thử nghiệm lắc chuông có thể cho kết quả không chính xác, vì các cử động trong thử nghiệm này vẫn tạo được phản ứng ở trẻ lãng tai. Thử nghiệm ABR đang được coi là hiệu quả nhất trong việc xác định tình trạng tính giác của trẻ nhỏ.
Càng chậm được điều trị, chứng yếu thính giác càng hạn chế sự phát triển ngôn ngữ và kỹ năng xã hội của trẻ.
Về điều này, bác sĩ James Andrews, một chuyên gia về các rối loạn ở tai, giải thích: Những tế bào não chịu trách nhiệm về sự hiểu biết ngôn ngữ bắt đầu liên kết với nhau vào những tháng đầu tiên trong đời đứa bé. Nếu đứa bé không nghe được tiếng nói, các tế bào não sẽ liên kết vào lối khác. Lúc đó, kỹ năng ngôn ngữ của trẻ sẽ không phát triển hoặc phát triển không hoàn chỉnh.
Một nghiên cứu năm 1998 đã chứng minh rằng, những trẻ được phát hiện chứng yếu thính giác trước 6 tháng tuổi và có biện pháp trị liệu thích hợp sẽ phát triển về các mặt tốt hơn nhiều so với trẻ cùng tình trạng nhưng được phát hiện muộn hơn. Jennifer mang máy trợ thính lúc lên 3, giờ đây đã 12 tuổi. Cháu tỏ ra thua kém bạn bè đồng trang lứa (không gặp rắc rối về thính giác) với một khoảng cách biệt là 2 năm. Do khả năng hiểu từ bị hạn chế, Jennifer gặp khó khăn trong đàm thoại, đôi khi còn phải ra hiệu. Còn Elese hiện lên 9, phải mang máy nghe lúc hơn 1 tuổi, cũng phát triển kém hơn những trẻ thính giác bình thường, nhưng sự chênh lệch không lớn như cô chị. Còn Ty, đứa con thứ 3 của vợ chồng Young, đã được thử ABR một thời gian ngắn sau khi sinh ra và bắt đầu mang máy trợ thính lúc 8 tuần tuổi. Hiện nay, kỹ năng ngôn ngữ và các kỹ năng xã hội của chú bé này hoàn toàn tương ứng với những trẻ nghe bình thường cùng tuổi.
Vì vậy, việc chẩn đoán và điều trị yếu thính giác cho trẻ phải được phát hiện thật sớm. Từ năm 1993, Viện Nghiên cứu về Sức khỏe Quốc gia Mỹ đã đề nghị kiểm tra thính giác cho tất cả trẻ em trước 3 tháng tuổi.
Khoa Học & Đời Sống
(theo Reader's Digest)(còn tiếp)
Kỳ sau: Cách nhận biết tình trạng yếu thính giác ở trẻ