Chào đời ngày 25/2/1981 tại Sa Thầy, Kon Tum, với hình hài khác thường, cặp song sinh Việt - Đức dính theo kiểu "Ischiopagus Tripus". Hai anh em chung nhau phần bụng chậu, bộ phận sinh dục, hậu môn, có hai chân và một chân cụt. Sau khi được đưa ra Bệnh viện Việt Đức điều trị, đến đầu tháng 12/1982, cả hai được chuyển vào Bệnh viện Từ Dũ.
Giữa năm 1986, sau những lần lên cơn co giật vì bại não, kéo lê người anh em dính liền, Nguyễn Việt rơi vào hôn mê và sống đời thực vật bên cạnh Nguyễn Đức vẫn còn tỉnh táo. Sau hơn 3 tháng được Hội chữ thập đỏ Nhật đưa sang Tokyo điều trị, ngày 29/10/1986 cả hai trở về Việt Nam. Việt đã khỏi bệnh nhưng mất vỏ não, không còn tri giác để tiếp xúc với thế giới bên ngoài, ăn thường xuyên bị sặc, ngưng thở, nhiều lần cấp cứu trong đêm. Nguy cơ chết đột ngột của Việt luôn đe dọa tính mạng của Đức.

Việt và Đức tại Bệnh viện Từ Dũ (TP HCM) tháng 4/1984. Ảnh tư liệu.
Sinh mệnh hai đứa trẻ được đưa lên "bàn cân". Trong bối cảnh nhạy cảm Việt Nam đang bị cấm vận, việc có mổ hay không, mổ ở nước nào không còn đơn giản là vấn đề trình độ y khoa mà bao hàm nhân tố thời cuộc. Với sự chỉ đạo cương quyết của cố viện sĩ Dương Quang Trung, vị "thuyền trưởng tài tình" của ngành y tế TP HCM lúc bấy giờ, việc mổ tách dính sẽ lần đầu tiên được thực hiện tại Việt Nam. Mọi thuốc men, trang thiết bị được Nhật hỗ trợ. Cuộc hội chẩn giữa Hoàng thân Konoe’, Chủ tịch đối ngoại Hội chữ thập đỏ Nhật Bản cùng giáo sư Araki tại Bệnh viện Từ Dũ diễn ra đã giúp những người trong cuộc thêm quyết tâm tiến hành ca mổ lịch sử.
Chuẩn bị cho ca mổ chưa từng có
Bác sĩ Trần Đông A, khi ấy là Trưởng Khoa Ngoại Bệnh viện Nhi đồng 2 (TP HCM) được giao trọng trách trưởng kíp mổ, thảo phương án mổ tóm tắt và danh sách các trang thiết bị cần thiết. Các thành phần của ê kíp từ ban tham vấn đến kíp mổ, gây mê hồi sức, xét nghiệm, nội khoa, tim mạch, dụng cụ viên, phục hồi chức năng, hậu cần... được đưa ra chọn lọc.
"Tôi đã dành một tháng để tiếp xúc những người tôi dự kiến sẽ mời tham dự ca mổ. Tôi rất ngạc nhiên vì ai cũng sẵn sàng tham gia dù chưa hề có kinh nghiệm trong mổ tách đôi song sinh dính nhau, vốn là một thách đố phức tạp của ngành phẫu thuật nhi và gây mê hồi sức nhi", giáo sư Trần Đông A nhớ lại. Những phẫu thuật viên chính của êkíp được chọn ra bao gồm các bác sĩ hàng đầu như Văn Tần, Trần Thành Trai, Võ Văn Thành, Lê Kính, Vũ Tam Tỉnh, Nguyễn Văn Hiệp...
Cuộc họp đầu tiên trình bày về phương án mổ và tình trạng Việt - Đức tiến hành vào ngày 14/6/1988. Kể từ đó cho đến ngày hai anh em lên bàn mổ là một chuỗi các cuộc họp và tranh luận gay gắt để đi đến phương án tối ưu. Nói sức mạnh tập thể thì rất dễ nhưng làm cho một tập thể, ngay cả một tập thể giỏi trở thành sức mạnh, phối hợp làm việc có hiệu quả là điều không đơn giản.
Cân não tìm phương án
Cùng tham khảo tài liệu về 6 cặp tương tự trên thế giới đã mổ, nhiều câu hỏi được đặt ra. Tình trạng bại não của Việt, dù các chức năng sinh tồn như nhịp thở, tim mạch, điều hòa nhiệt độ, phản xạ thần kinh dịch thể hormone... vẫn giữ được nhưng rất dễ rối loạn và vượt khỏi tầm kiểm soát bất cứ lúc nào. Vậy hy sinh Việt để giữ Đức an toàn hay vì muốn giữ cả hai mà có thể khiến cặp song sinh đang dính nhau cùng tử vong? Hay sẽ ưu tiên cứu Đức và cố gắng giữ Việt?
Nhiều tình huống được cân nhắc vì đến lúc đó trong hồ sơ của Việt - Đức ở Nhật đem về chỉ thấy có chung một khối thận. Kết quả chụp hình cản quang UIV tại Bệnh viện Từ Dũ cũng chỉ thấy một khối thận hiện lên và nằm rất thấp trong tiểu khung. Nếu Việt - Đức chỉ có chung một khối thận mà đặt ra yêu cầu cứu cả hai thì rất phiêu lưu. Vậy có nên chia khối thận làm hai? Làm như thế ngay sau ca mổ cả Việt và Đức đều bị suy thận. Nếu dành khối thận cho Đức và chạy thận nhân tạo cho Việt thì sao? Đó là điều không tưởng vì sau phẫu thuật với vết mổ của Việt dài 60-80 cm liệu có thể chạy thận nhân tạo được không? Về nguyên tắc cơ bản là chỉ sử dụng thận nhân tạo khi vết mổ được đóng kín và không chảy máu. Cuối cùng mọi người cùng thống nhất trong trường hợp nếu chỉ có một khối thận chung cho Việt Đức thì phương án hy sinh Việt để cứu Đức là hợp lý nhất. Nếu không thì cả hai sẽ cùng chết.
Còn những bộ phận chung khác, có nên chia mỗi đứa trẻ một phân nửa hậu môn, một phân nửa bộ phận sinh dục? Quan điểm dành toàn bộ cho Đức, còn Việt vì đã bại não sẽ sử dụng hậu môn nhân tạo được nhiều người ủng hộ. Tuy nhiên có ý kiến chất vấn để lại như vậy có đúng sinh học không, vì phân nửa các bộ phận này là của Việt, được điều khiển bởi thần kinh của Việt nên để lại có bị hoại tử và Đức có sử dụng được không? Nhiều bác sĩ cho rằng phải tách đúng đường giữa cho sinh học, vì nếu tách lệch thì sau này sẽ có những phần bị thối do hệ thống thần kinh, mạch máu không tới đó nữa. Mổ bàng quang thì ai cũng muốn ưu tiên dành phần lớn cho Đức, nhưng lại sợ có nguy cơ phần không dùng sẽ biến thành bàng quang thần kinh hoặc túi thừa nếu nó không hoạt động.

Nguyễn Đức trong ngày hội đi bộ vì nạn nhân chất độc da cam năm 2009. Ảnh: Thiên Chương.
Với kinh nghiệm giải quyết hàng trăm ca dị tật hậu môn và đại tràng trước đó, bác sĩ Trần Đông A đã đưa ra nhận định: Các cơ của bàng quang, bộ phận sinh dục, hậu môn ở hai nửa không phải tiếp giáp nhau ở đường giữa mà đan xéo vào nhau như cài răng lược. Do đó nếu để lại toàn bộ cho Đức chỉ thần kinh của hai Đức cũng có thể điều khiển được cả hai nửa.
Cận kề giờ chót, tấm phim chụp kết hợp MRI và UIV chụp tại Nhật đã được tìm thấy. Trên phim hiện rõ Việt - Đức có hai khối thận riêng rẽ nằm trong tiểu khung, ngay trên đường dự kiến sẽ chia xương chậu. Nhiều tiếng thở phào nhẹ nhõm xen lẫn một sự đáng tiếc. Lẽ ra không phải mất sức, mất quá nhiều thời gian để tranh cãi chọn phương án vì hai cháu chỉ có chung một khối thận.
Song song với việc chuẩn bị phương án mổ, mô hình búp bê tái hiện hai anh em được tạo ra để giúp các bác sĩ thực hành phẫu thuật trước. Nhờ việc khiêng búp bê vào phòng mổ, mọi người mới phát hiện cửa phòng không thể đưa cặp song sinh vào. Lãnh đạo thành phố phải chỉ đạo sửa gấp trong vòng chưa tới một tháng để ca phẫu thuật được diễn ra theo đúng kế hoạch.
Dưới sự điều khiển khéo léo của cố viện sĩ Dương Quang Trung, ngày 4/10/1988 ca mổ diễn ra như dự kiến. Giờ phút căng thẳng trong cuộc đại phẫu tách dính Cuộc đại phẫu nhận được sự quan tâm của báo chí thế giới, truyền hình trực tiếp trên nhiều kênh truyền hình quốc tế. Tuy nhiên không nằm ngoài dự liệu, vừa tiến hành tiền mê cho Đức thì Việt lên cơn co giật, mạch đập đến gần 200 lần một phút.
Trong khi kíp tim mạch, gây mê hồi sức lo cấp cứu thì các phẫu thuật viên chính trong tinh thần sẵn sàng mổ cấp cứu, tập trung cứu cho Đức trong thời gian ngắn nhất. Mục tiêu đặt ra là phải cặp cắt cho được ngay tất cả các mạch máu thông nhau giữa hai đứa trẻ nếu không cả hai sẽ tử vong trên bàn mổ.
"Miệng tôi đắng ngắt, mắt nhìn trân trân vào các máy theo dõi sinh học của cháu Việt bởi vì nếu có triệu chứng suy tim thì tôi phải tiến hành ngay. Điều tôi không ngờ là anh Tư (viện sĩ Dương Quang Trung) đã đến đứng sát bên tôi từ lúc nào. Và cứ như thế chúng tôi đứng bên nhau cho đến khi kíp gây mê và tim mạch cho biết cháu Việt đã qua cơn nguy kịch. Lúc đó tôi mới rời phòng mổ ra ngoài rửa tay lại và thay áo vào mổ cùng các anh Văn Tần và Trần Thành Trai. Thời gian 1 giờ 30 phút chờ đợi đó đối với tôi như dài hàng thế kỷ...", giáo sư Trần Đông A hồi tưởng.

Ca phẫu thật tách đôi cặp song sinh dính nhau Việt - Đức. Ảnh tư liệu ngày 4/10/1988.
Sau khi bác sĩ Đông A bóc tách hết tất cả cơ lẫn những cấu trúc liên hệ đến hậu môn và hệ thống sinh dục lệch về phía của Việt khoảng 2,5 cm thì đến phần các bác sĩ Lê Kính, Võ Văn Thành, Vũ Tam Tỉnh đục xương. Vì xương cứng nên rất sợ nếu đục lệch vào trong một tí thì... "khả năng đàn ông" của Đức sau này sẽ không thể trở thành hiện thực. Do đó sau khi bóc tách, để bảo vệ tất cả cấu trúc của các bộ phận này, bác sĩ Đông A đã để đầu ngón tay trỏ vào để hướng dẫn mũi đục của anh em đục đúng đường. Nếu lỡ có lệch thì sẽ đục ngay vào ngón tay chính ông.
Về hậu môn chung, khung đại tràng hoàn toàn do hệ thống mạch máu của Việt nuôi, phần của Đức chỉ kiểm soát chung với Việt ở khúc đầu tiên của khung đại tràng và khúc cuối cùng của trực tràng sát với hậu môn. Nếu muốn dành hậu môn cho Đức thì bắt buộc chỉ giữ lại đoạn ruột cuối được nuôi bởi mạch máu của Đức chung với Việt và khung đầu tiên của khung đại tràng. Hai đoạn này rất xa, việc nối cần phải đảm bảo sau này Đức có thể tự mình đi tiêu được?
Vị bác sĩ trưởng kíp nảy ra ý xoay toàn bộ ruột của Đức từ tá tràng trở xuống thành dạng của ruột nguyên thủy lúc còn thời kỳ bào thai. Đoạn đầu tiên của khung đại tràng thay vì nằm ở hốc chậu phải đã được đưa sang hốc chậu trái. Điều này ngoài mục đích để đóng hậu môn, nó còn có một nhiệm vụ khác là tạo thành một phần của giới hạn dưới của ổ bụng Đức do thiếu phúc mạc. Nếu không để như vậy thì bất cứ khúc ruột nào của Đức cũng có thể dính vào thành bụng gây ra tắc. Còn khúc ruột này là khúc cuối cùng nên càng dính kỹ bao nhiêu càng tốt, không sợ gây tắc và hoạt động đường tiêu hóa sau khi đóng hậu môn của cháu sau này đã minh chứng cho sáng tạo này là hoàn toàn chính xác mà tờ báo Pháp gọi là "sự chính xác siêu hạng".
15 giờ phẫu thuật căng thẳng trôi qua. Khi mối khâu cuối cùng trên bụng Đức kết thúc thì cũng đã nửa đêm. Nhiều bác sĩ dù kiệt sức mệt nhoài vẫn cố nán lại phòng mổ theo dõi thêm. Sau khi căn dặn mọi người về cách thức theo dõi, bác sĩ trưởng kíp bước ra khỏi phòng phẫu thuật với chiếc áo mổ mặc bên trong đã ướt sũng nước. Một bất ngờ nữa lại đến với ông khi viện sĩ Dương Quang Trung, Hoàng thân Konoe, một số lãnh đạo các bệnh viện có người tham gia ca mổ vẫn còn ngồi ở phòng theo dõi và nhất là lãnh đạo cao nhất thành phố lúc đó, Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư thành ủy Võ Trần Chí, đã đến bắt tay và trao lẵng hoa chúc mừng.
"Khi ấy đã sang ngày 5/10/1988. Đó là những giây phút tôi không bao giờ quên", giáo sư Đông A xúc động.
Thành công ngoài mong đợi
Bước qua ca mổ sinh tử, hai anh em nhanh chóng hồi phục ngoạn mục trong sự hồi hộp dõi theo của cả thế giới. Việt sống đời thực vật nhưng vẫn ở lại với đời được 19 năm sau mổ với sự chăm sóc của các y bác sĩ Làng Hòa Bình, Bệnh viện Từ Dũ. Nguyễn Đức lớn lên trở thành nhân viên Làng Hòa Bình, lập gia đình và có 2 con sinh đôi xinh xắn là điều chưa từng có trong lịch sử y khoa thế giới qua những ca tương tự đã được công bố. Cuộc đại phẫu năm nào càng thêm ý nghĩa trọn vẹn. Chủ hôn đám cưới của Nguyễn Đức chính là những "ông nội", "ông ngoại", "bà ngoại"... đã tham gia êkíp mổ giúp hồi sinh cuộc đời anh.

Hạnh phúc bên gia đình nhỏ với người vợ và hai con sinh đôi xinh xắn, Nguyễn Đức luôn biết ơn những bác sĩ trong êkíp mổ, những người yêu thương mình và đặc biệt là người anh song sinh đã nhường phần lớn cơ thể cho mình. Ảnh nhân vật cung cấp.
Ca mổ huyền thoại đã trở thành mốc son trong lịch sử y học Việt Nam, được ghi danh vào sách kỷ lục Guinness thế giới 1991. Đội ngũ những người thầy thuốc áo trắng tự tin bước ra hòa nhập thế giới. 28 năm trôi qua với nhiều biến chuyển không ngừng. Những bác sĩ tham gia êkíp ngày ấy, nay người đã về cõi vĩnh hằng, người vẫn đang tiếp tục công việc cứu người không ngơi nghỉ ngay cả lúc về hưu sau những tháng ngày giữ trọng trách lãnh đạo ở các bệnh viện lớn.
>>> Xem tiếp Những ca mổ tách song sinh dính liền lưu danh y học Việt Nam
Lê Phương