Ngô Tự Lập -
I. Hiệu ứng đưa nôi
Thơ có thể viết dưới dạng văn vần hoặc văn xuôi, điều đó ngày nay chẳng cần bàn cãi. Tuy nhiên, không ai có thể phủ nhận được rằng từ hàng ngàn năm nay, tuyệt đại đa số thơ được viết bằng văn vần, đến mức gần như ở mọi nơi trên trái đất, nhiều người vẫn có xu hướng đồng nhất thơ với văn vần. (Chính vì sự đồng nhất như vậy mà dẫn đến sự đối lập giả tạo giữa thơ và văn xuôi mà tôi đã có dịp đề cập trong bài Thơ hay là cái chết của thời gian [1]. Dù hiện nay có vẻ như thơ tự do đang chiếm thế thượng phong, chắc hẳn là còn rất lâu nữa, có thể là mãi mãi, thơ có vần vẫn chiếm một tỷ trọng đáng kể.
Tại sao vần điệu lại phổ biến và quan trọng đến vậy trong thơ?
Lý do, theo tôi, liên quan chặt chẽ với bản chất của thơ mà tôi đã trình bày trong bài Thơ hay là cái chết của thời gian vừa kể. Xin nhắc lại luận điểm chính. Theo tôi, sự khác nhau cơ bản giữa truyện và thơ là ở chỗ: truyện gây nên ở người đọc ấn tượng về một quá trình, còn thơ tạo nên ở người đọc ấn tượng về một trạng thái. Nói cách khác, ấn tượng thẩm mỹ ở truyện mang tính thời gian, còn ở thơ thì phi thời gian.
Trong một bài tiểu luận khác, Văn học như là quá trình dụng điển[2], tôi cũng đã chứng minh rằng ấn tượng thẩm mỹ phi thời gian ở thơ về bản chất là sự kích hoạt bằng văn bản những ký ức, mà tôi gọi là điển tích đời sống, tiềm ẩn ở người đọc. Nếu như truyện là quá trình xây dựng một điển tích mới tức thời giữa tác giả và độc giả, thì thông qua bài thơ, tác giả dẫn chiếu đến một điển tích đời sống tiểm ẩn ở độc giả tiềm ẩn của mình.
Để khảo sát vai trò của vần điệu trong quá trình dụng điển ở thơ, chúng ta cần phải trở lại với nguồn gốc và chức năng nguyên thuỷ của nó.
Thoạt tiên, vần điệu xuất hiện như là một thủ pháp để hỗ trợ trí nhớ. Trong giai đoạn đầu của lịch sử nhân loại, khi con người chưa có chữ viết, vần điệu là một sáng tạo tuyệt vời giúp lưu giữ và lan truyền kinh nghiệm, tri thức cũng như tình cảm từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các văn bản tôn giáo do yêu cầu phải giữ nguyên vẹn không chỉ nội dung mà cả hình thức ngôn ngữ. Việc lặp đi lặp lại số âm trong một câu thực chất là chia một văn bản dài thành những đơn vị thuận lợi cho việc tiếp nhận và ghi nhớ. Vần thực chất là một cách gợi ý. Chẳng hạn, trong một bài thơ lục bát, nếu câu sáu kết ở vần "ơn" như trong (Làn thu thuỷ nét xuân sơn) thì âm thứ sau trong câu tám phải là từ có vần "ơn" như "hơn", "nhơn", "hờn" v.v..., nghĩa là nằm trong một nhóm khá hẹp. Nếu không có sự gợi ý của vần, chúng ta sẽ gặp khó khăn hơn rất nhiều để nhớ câu thơ sau của Nguyễn Du (Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh).
Như thế, văn vần đã ra đời với tư cách là một thuật nhớ và được sử dụng rộng rãi trong văn hoá truyền miệng. Chẳng hạn, bài học về gia vị trong văn hoá Việt Nam:
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn đòi hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Mẹ ơi đi chợ mua tôi củ giềng
Con trâu khóc ngả khóc nghiêng
Con chó củ giềng con trâu củ tỏi...
Ngày nay chúng ta vẫn còn gặp loại thuật nhớ này. Chẳng hạn, các em học sinh "vỡ lòng" tập nhớ mặt chữ cái bằng những câu như:
"O" tròn như quả trứng gà
"Ô" thì đội mũ, "ơ" già có râu...
Ở lớp lớn hơn, các em sử dụng chúng để nhớ thuộc lòng các quy tắc toán học:
Muốn tính diện tích hình thang
Đáy lớn đáy nhỏ ta mang cộng vào
Rồi đem nhân với chiều cao
Chia đôi lấy nửa thế nào cũng ra.
Tương tự như vậy, Denys Thompson, trong The Uses of Poetry [3] dẫn ra các bài hát của ngư dân khi đi từ bờ biển Lincolnshire đến Tune::
First the Dudgeon, then the Spurn,
Flamborough Head comes next to turn,
Scarborough Castle standing high,
Whitby Rocks lay northernly.
Sunderland lay in a bright, etc.
(Đầu tiên là Dudgeon, rồi Spurn xuất hiện,
Tiếp theo mũi Flamborough sẽ đến,
Lâu đài Scarborough sừng sững nhô cao,
Mỏm Whitby chếch về phía bắc
Sunderland có màu sáng quắc...)
hay những bài "vè ngữ pháp" ("grammatical hymn") để trợ giúp học sinh học tiếng La Tinh:
Third nouns masculine prefer
Endings o, or, os and er
Third nouns feminine we class
Ending is, aus, x and as,
S to consonant appended,
Es in flexion unextended...
Nguồn gốc sâu xa của vần điệu nằm ở tính tuần hoàn của các quá trình trong vũ trụ và thân thể con người. Denys Thompson viết rằng cảm giác về nhịp điệu của con người nảy sinh từ nhu cầu hoà hợp với chu trình của mặt trời và sự luân chuyển của các mùa, cũng như các quá trình sinh lý của cơ thể, chẳng hạn sự co bóp của phổi.
Một trong những nguyên lý căn bản trong hoạt động của con người là nguyên lý tiết kiệm. Denys Thompson trích lời Wenger: "Nhịp điệu tự nhiên đối với các vận động cơ thể có thể được sử dụng để tăng hiệu quả công việc với nỗ lực ít nhất - làm việc với nhịp độ phù hợp sẽ đỡ mệt". Chính đó là lý do khiến văn vần còn được sử dụng rộng rãi trong các bài hát lao động, nhất là trong lao động tập thể, như chèo thuyền, giã gạo, chặt cây, kéo lưới, kéo gỗ... Trong cuốn sách đã nhắc ở trên, Denys Thompson dẫn ra rất nhiều bài ca lao động như thế, chẳng hạn các bài "Shanties" (xuất phát từ tiếng Pháp "chantez") của ngư dân Scotland:
Hail all and ane
Hail all and ane
Hail him up til us
Hail him up til us.
Hou hou
Pulpela
Boulena boulena
Darta darta/ Hard out strif...
Hay bài hát nâng thuyền:
Boney was a warrior
Away-i-oh
Boney was a warrior
John Francois
Boney fought the Proosh-i-ans
Away-i-oh
Boney fought the Proosh-i-ans
John Francois
Chúng ta có thể thấy rằng ban đầu những bài ca lao động này, cũng như những bài vè thuật nhớ ở trên, không phải là thơ: chúng được tạo ra để giữ nhịp hoặc để lưu giữ một vài thông tin nào đó. Nhưng chúng ta cũng dễ nhận thấy rằng, trên thực tế, ngày nay không ít người tiếp nhận chúng như những bài thơ. Thompson nhận xét rất đúng rằng "nhiều bài ca lao động được tạo nên để giảm nhẹ lao động và tăng hiệu quả công việc, nhưng rồi được thể hiện như những tác phẩm nghệ thuật [4].
Hiện tượng này không phải ngẫu nhiên, và nó có thể được mô tả một cách khái lược như sau. Khi chúng ta học thuộc một bài văn vần, chúng ta ghi nhớ không chỉ nội dung, mà cả hình thức ngôn ngữ của nó. Những hình thức dễ tiếp nhận và dễ nhớ có nhiều cơ hội để phổ biến hơn. Do được lặp đi lặp lại ở các văn bản khác nhau, nó dần dần trở thành một kiểu mẫu, một thứ ước lệ, ở đây là ước lệ hình thức, mà con người sử dụng để tạo ra những văn bản tương tự. Các vận luật khác nhau ra đời.
Đó là một quá trình lâu dài nhưng đến một lúc nào đó, khi đã trở thành phổ biến, chúng trở thành tự nhiên như thể chúng vẫn luôn luôn tồn tại như thế. Bây giờ, khi nghe một bài văn vần, chúng ta không chỉ tiếp nhận nội dung, tức là thông tin, mà còn nhận biết vận luật nào được sử dụng trong đó. Nói cách khác, chúng ta tiếp nhận cả thông điệp nội dung lẫn thông điệp hình thức của văn bản.
Một trong những nguồn gốc của cảm giác phi thời gian đặc trưng cho thơ chính là sự lặp đi lặp lại về hình thức như vậy. Sự nhịp nhàng, đều đặn của câu thơ hướng sự chú ý của người đọc từ nội dung sang hình thức. Ở đây có một hiệu ứng tâm lý mà tôi muốn gọi là hiệu ứng "đưa nôi", bởi nó tương tự như hiệu ứng của chiếc nôi gây ra đối với đứa trẻ. Chuyển động nhịp nhàng của chiếc nôi khiến đứa trẻ lãng quên các sự vật cụ thể xung quanh và dễ dàng chìm vào giấc ngủ. Tương tự như thế, hình thức tuần hoàn của văn bản lái nguời đọc ra khỏi nội dung cụ thể của nó. Giống như chuyển động của chiếc nôi càng đều đặn càng tốt, vần điệu của một bài thơ càng du dương, êm ái, việc tiếp nhận nội dung thông tin cụ thể của nó càng trở nên mờ nhạt. Để minh họa cho điều này, chúng ta không thiếu ví dụ cụ thể. Trong các buổi ngâm thơ, chẳng hạn, người nghe thường rất khó phân biệt bài thơ nào hay, bài thơ nào dở. Có thể nói, việc ngâm thơ gần với nhạc hơn thơ, trong đó "ngâm" là chính, còn "thơ" là phụ. Một ví dụ khác ít nhiều liên quan đến huyền thoại về tính phổ biến của Truyện Kiều. Tôi từng gặp nhiều người thuộc và có thể thích thú ngâm nga từng đoạn dài của Truyện Kiều, nhưng khi hỏi ra thì không hiểu, hoặc hiểu sai hoàn toàn nội dung của nó, đặc biệt là những đoạn có nhiều điển tích. Hoá ra họ thích chủ yếu là âm điệu du dương của nó. Cũng tương tự như vậy, nhiều tín đồ Phật giáo thậm chí thuộc lòng và đọc như thơ những bài kinh dài bằng tiếng Phạn, mặc dù chắc chắn họ không biết dù chỉ một từ của thứ tiếng cổ này.
Denys Thompson đã rất chính xác khi ông nối tiếp Thompson G. khẳng định rằng "thơ có vần điệu nhịp nhàng gây nên những hiệu ứng rất khác ở người nghe. Mức độ thôi miên giúp họ giải toả bằng tưởng tượng các mâu thuẫn trong đời thực, đi vào một thế giới bớt mang tính cá nhân nơi họ có nhiều điều chia sẻ với kẻ khác.[5]"
Xin lưu ý rằng hiệu ứng "đưa nôi" không chỉ ở cấp độ câu thơ, mà cả ở các khổ thơ và các cấu trúc lớn hơn. Nhiều bài thơ lặp đi lặp lại một hình ảnh, một từ, một câu hay một khổ như là điệp khúc. Bài The Raven của Edgar Allan Poe, chẳng hạn, có điệp khúc là "never more" trong suốt bài thơ. Thể rondo là một ví dụ khác.
Sự xuất hiện của hiệu ứng "đưa nôi", theo tôi, là một bước tiến nhảy vọt trong nhận thức của con người về ngôn ngữ. Từ đó, ngôn ngữ không còn đơn thuần là công cụ chuyển tải thông điệp nội dung, mà còn mang thông điệp trong hình thức của chính nó. Đó là lần đầu tiên con người nhận ra và chủ động tạo ra vẻ đẹp của hình thức ngôn ngữ.
Có thể nói rằng thời điểm con người nhận thấy hiệu ứng "đưa nôi" của văn vần, hay nói cách khác, khi họ nhận ra hiệu ứng phi thời gian của sự tuần hoàn hình thức, cũng chính là thời điểm thi ca xuất hiện.
II. Những khế ước tinh thần
Không ai có thể nói thơ ra đời vào thời điểm cụ thể nào, nhưng một khi hiệu ứng đưa nôi được phát hiện, vai trò của vần điệu ngày càng trở nên quan trọng. Nhìn chung, hiệu ứng đưa nôi sẽ càng cao nếu tính tuần hoàn của văn bản càng lớn. Nhưng không phải ai cũng có khả năng như nhau trong việc tạo ra những văn bản như vậy. Vì thế, trong chừng mực nào đó, tài nghệ của nhà thơ dân gian được đánh giá căn cứ vào khả năng tạo nên những văn bản với vần điệu nhịp nhàng, đều đặn, nói nôm na là càng vần càng hay. Điều này ngay cả hôm nay vẫn còn đúng. Cùng với thời gian, hình thức của vần điệu ngày càng trở nên chặt chẽ, trở thành quy tắc được chấp nhận rộng rãi. Đó chính là các thể thơ.
Để minh họa, chúng ta có thể lấy truyền thống thơ Trung Quốc. Nghiên cứu những bài thơ dân gian trong Kinh Thi (thế kỷ X đến thế kỷ VI tr.CN) chúng ta thấy cách gieo vần cũng như nhịp điệu còn khá lỏng lẻo, các bài thơ chưa có số câu cố định, và câu thơ trong mỗi bài cũng nhiều khi không có độ dài đồng nhất (dù câu thơ bốn chữ chiếm phần lớn). Theo Frankel, các thể thơ chặt chẽ chỉ xuất hiện ở Trung Quốc khá lâu sau đó[6]. Trong Cổ thi Trung Hoa, các câu trong một bài đã có độ dài nhất định, tuy cách gieo vần vẫn chưa hoàn toàn chặt chẽ, nhất là so sánh với thơ Đường (618-960).
Hiện tượng tương tự cũng có thể quan sát được ở những nền văn học khác. Trong văn học Nhật Bản, chẳng hạn. Robert H. Briwer về Cổ Sự Ký (712) và Nhật Bản Thư Ký (720) rằng mặc dù rất khó và nhiều khi không thể xác định chính xác thời gian sáng tác của từng bài, "nhìn chung có thể thấy các bài càng cổ thì vận luật càng ít chặt chẽ, các bài càng muộn càng gần với luật thơ năm và bảy âm"7. Xin lưu ý rằng tuy được soạn trong thế kỷ thứ VIII, hai tác phẩm vừa nhắc là sưu tập những bài ca dao cổ của Nhật.
Sự phát triển của thơ trữ tình trong văn học Hy Lạp cổ đại là một ví dụ khác. Theo A. Thomas Cole, những bài thơ trữ tình Hy Lạp sớm nhất (khoảng 600 tr.CN), bao gồm những khúc được lặp đi lặp lại, nhưng những khúc này có thể chia thành những đoạn dài ngắn khác nhau[8]. A. Thomas Cole cũng cho biết rằng "các nhà thơ về sau có xu hướng tự nhiên là ưa chuộng các thể thơ phức tạp" ("later poets naturally tended to favor more complex forms") và cho rằng tác giả của những bài thơ phức tạp là những người có học. Điều này đúng với nhận xét của chúng ta ở trên rằng tài nghệ của nhà thơ thường được đánh giá căn cứ vào mức độ tuần hoàn của hình thức văn bản. Cole giải thích rằng sự phức tạp hình thức của thơ trữ tình trong giai đoạn phát triển cuối có được là do đến cuối thế kỷ thứ V trình diễn thơ đã được chấp nhận rộng rãi như là công việc chỉ dành cho những chuyên gia điêu luyện[9].
Sự củng cố và phức tạp hóa các vận luật thường chịu tác động của việc phát minh và truyền bá chữ viết cũng như ảnh hưởng từ những truyền thống thơ ca khác. Là thứ công cụ lưu giữ văn bản hiệu quả hơn nhiều, chữ viết khiến vai trò thuật nhớ của văn vần không còn quan trọng nữa. Vần điệu bây giờ chủ yếu đóng vai trò thẩm mỹ. Lehmann W. P. cho biết rằng trong thơ Đức cổ, đơn vị thơ dài nhất là dòng. Nhưng với việc ra đời của chữ viết, các nhà thơ liên kết một số câu thơ vào một đơn vị thơ[10]. Cùng với sự vay mượn các thể thơ Latin, ảnh hưởng lớn nhất đối với thơ Đức là từ Pháp trong các thế kỷ XII-XIII, và điều này dẫn đến việc hình thành các khổ thơ phức tạp.
Ở Anh, trong thế kỷ XVII, sự ngưỡng mộ đối với thơ Hy Lạp và Latin đã khiến nhiều nhà thơ tìm cách "trau chuốt" các thể thơ Anh. Paul Fussell, khi viết về phong trào hướng tới một vận luật chặt chẽ, kể từ Biện Hộ Cho Vần (Defense of Rhyme) của Samuel Daniel cho đến Thiên Đường Đã Mất (Paradise Lost) của Milton, tuyên bố rằng đến thời Dryden, thơ Anh "cả về lý thuyết lẫn thực hành đã đạt đến những hạn định chặt chẽ lý tưởng về âm vận của câu thơ" ("reaches, in both theory and practice, an ideal of strict syllabic limitation in the line").
Sự sử dụng phổ biến của các thể thơ cùng với sự quan tâm ngày càng tăng đến các quy tắc chặt chẽ về vận luật dẫn đến hai hệ quả quan trọng.
Thứ nhất, vì các thể thơ bao giờ cũng được hình thành trong một bối cảnh cụ thể, chúng dần dần gắn liền với một miền ký ức chung của một vùng, một nhóm người hay một thời đại. Thơ lục bát ở Việt Nam, chẳng hạn, thường khiến người đọc có xu hướng liên tưởng đến truyền thống Việt Nam, đến nông thôn. Cũng vậy, thơ Đường thường gắn với cảm hứng ngâm vịnh, hoài cổ, những chủ đề đặc trưng cho các nhà Nho. Ở phương Tây, thể sonnet theo truyền thống là thơ tình trước khi được một số tác giả thí nghiệm cho các đề tài khác.
Vì thế, việc lựa chọn một thể thơ thường đã mang một thông điệp thẩm mỹ. Có thể nói rằng thể thơ cũng là một thứ điển tích, điển tích hình thức.
Thứ hai, quan trọng hơn, vần điệu trở thành một dấu hiệu quy ước - và trong nhiều thế kỷ, là dấu hiệu quan trọng nhất - của thơ. Một văn bản bao gồm những dòng ngắn có vần điệu thường lập tức được người đọc tiếp nhận là thơ. Điều đó trên thực tế có nghĩa là người đọc ngay lập tức chuẩn bị tâm lý để có một cảm nhận phi thời gian bất kể nội dung thông báo của văn bản là gì. Hiệu quả của quy ước này mạnh đến nỗi trong nhiều trường hợp ngay cả một văn bản viết bằng một thứ tiếng xa lạ có dấu hiệu đó cũng được cảm nhận là thơ. Đó chính là trường hợp những tín đồ Phật giáo thuộc lòng và đọc thơ bằng tiếng Phạn mà chúng ta vừa nói ở phần trên.
Như vậy, có thể nói rằng vận luật và các thể thơ cũng là một thứ điển tích, điển tích hình thức, tương ứng với một miền cảm xúc phi thời gian trong ký ức của người đọc. Vận luật dẫn chiếu đến ký ức về thơ nói chung, còn các thể thơ dẫn chiếu đến những miền thơ cụ thể. Xin lưu ý rằng, cũng giống như mọi loại điển tích khác, vận luật chỉ gợi lên miền cảm xúc này nếu như nó là miền ký ức chung của nhà thơ với người đọc. Chẳng hạn, thơ lục bát và thơ Đường khiến người đọc Việt Nam có hai trạng thái cảm nhận khác nhau mà độc giả thuộc nền văn hoá khác khó mà phân biệt được.
Còn tiếp
***
Chú thích:
[1] Đã in trong tập Minh Triết Của Giới Hạn, nhà xuất bản Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2005.
[2] Ibidem.
[3]Denys Thompson, 1978, The Uses of Poetry, Cambridge: Cambridge U.P.
[4] "it is certainly true that many songs made up to lighten labor and increase the efficacy of work came to be performed as "art" songs" (Thompson, D., p. 34).
[5] "rhythmical poetry produces quite different effects in listeners; the degree of hypnosis exerted enables them to resolve the discords of reality in fantasy, entering a less individualized world where they have more in common with other people" (p.11
[6]Wimsatt, W. K., ed. Versification-Major language types, (1972), New York: New York U.P.
[7] Wimsatt, W. K, sđd. "in general it may be observed that the older the song the more irregular its prosody, the later the song the more closely it approaches a regular alteration of five- and seven-syllable lines" (tr. 40).
[8] Wimsatt, W. K, sđd. tr. 72.
[9] Wimsatt, W. K, sđd. "the elaborateness of the lyric in its latest stage of development was only possible because in the late fifth century it was becoming the custom to entrust performances to virtuoso specialists". tr.77.
[10] Wimsatt, W. K, sđd. "with the introduction of writing, poets joined together a number of lines into prosodic units...". tr. 200.