VnExpress giới thiệu bài viết của thạc sĩ Trần Văn Quyến:
"Hòa thượng Thích Đại Sán (1633-1702) là người tỉnh Triết Giang, đời nhà Thanh (Trung Quốc). Sách Đại Nam liệt truyện nhà Nguyễn cho biết Thích Đại Sán là người "học rộng, tao nhã uyên bác. Thông thiên văn tinh tượng, luật lịch, bói toán, địa lý, xem số, viết chữ triện lệ, vẽ tranh truyền thần cái gì cũng biết. Lại giỏi làm thơ".
Cảm mến về tài năng và đức độ của nhà sư, Chúa Nguyễn Phúc Chu đã mời hòa thượng sang để hoằng pháp ở Đàng Trong. Nhà sư đến phủ Chúa ngày 13/3/1695 và về nước vào trung tuần tháng 6/1696. Trong thời gian hơn một năm ở Đại Việt ông đã thường xuyên trao đổi với Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu cũng như các nhân vật quan trọng trong phủ Chúa, bàn luận về các vấn đề lớn của xã hội Đàng Trong.
Hòa thượng Thích Đại Sán đã ghi chép hoạt động của mình, những điều tai nghe mắt thấy trong những ngày ở Thuận Hóa vào một cuốn sách lấy tên là Hải ngoại kỷ sự. Sách ghi chép từ tháng 8 năm Giáp Tuất niên hiệu Khang Hy thứ 33 (1694), lúc nhà sư Thích Đại Sán tiếp kiến Sứ giả Đại Việt tại Quảng Đông cho đến khoảng tháng 11 năm Ất Hợi niên hiệu Khang Hy thứ thứ 34 (1695).
Bìa của cuốn sách Hải ngoại kỷ sự trong Tứ khố toàn thư (Trung Quốc). Ảnh: T.V.Q |
Nội dung của cuốn sách đề cập đến phong thổ, nhân vật và tập tục, việc nhà sư được người dân Quảng Nam đón tiếp nồng nhiệt, nội dung các buổi trò chuyện, thư từ trao đổi, việc trụ trì các ngày lễ Phật Giáo ở Đàng Trong. Ngoài ra còn có những ghi chép về sinh hoạt của Hoa Kiều và 110 bài thơ tức cảnh của nhà sư.
Trong bài khảo cứu về sư Đại Sán và Hải ngoại kỷ sự, giáo sư Trần Kinh Hòa đã khẳng định so với các sách du ký khác cùng thời của người Trung Quốc viết về Đại Việt như An Nam cung dịch ký sự, An Nam tạp ký… thì Hải ngoại kỷ sự nội dung phong phú và các sử liệu đáng tin cậy hơn rất nhiều. Điều đó cho chúng ta thấy tính chân xác và giá trị về những ghi chép của hòa thượng Thích Đại Sán.
Trong quyển 3 phần văn thư viết cho Học sĩ Hào Đức Hầu, có đoạn ghi về sự nguy hiểm của vùng biển Hoàng Sa đối với tàu thuyền qua lại và việc kiểm soát khu vực này của các chúa Nguyễn. Những điều này chính hòa thượng Thích Đại Sán đã trải nghiệm một phần trong lúc đi sang Đại Việt và được kiểm chứng bởi những người "khách" thường xuyên đi lại trên biển nói cho ông. Nội dung đoạn văn đó như sau:
"Khách có người bảo…giữa biển có dải cát đá nằm ngang, chạy dài từ Đông Bắc qua Tây Nam; cao như vách tường đứng trên biển, chỗ thấp cũng ngang mặt nước; mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền chạm phải ắt tan tành; bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là "vạn lý trường sa" mù mịt chẳng thấy cỏ cây nhà cửa, nếu thuyền bị trái gió trái nước tất vào, dầu không tan xác, cũng không có gạo, nước trở thành ma đói. Khoảng cách đến Đại Việt là bảy canh đường, bảy canh khoảng 700 dặm. Thời quốc vương trước, hàng năm có sai thuyền đánh cá đi dọc theo bãi cát lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hu tất vào. Mùa thu nước dòng cạn, chảy rút về hướng đông, bị một ngọn sóng đưa đi thuyền có thể trôi xa cả trăm dặm; sức gió chẳng mạnh, sợ có hiểm họa trường sa." (Hải ngoại kỷ sự, quyển 3, trang 24. Bản in trong Tứ khố toàn thư).
Đọc những dòng ghi chép của Thích Đại Sán chúng ta thấy tương đồng với những sử liệu đương thời của Việt Nam. Trong Phủ biên tạp lục (1776) của Lê Quý Đôn ghi: "Ngày trước, họ Nguyễn có thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người ở xã An Vĩnh sung vào. Mỗi năm họ luân phiên nhau đi biển, lấy tháng hai ra đi nhận lãnh chỉ thị làm sai dịch. Đội Hoàng Sa này được cấp phát mỗi người sáu tháng lương, đi bằng năm chiếc thuyền câu nhỏ ra ngoài biển cả ba ngày ba đêm mới đến đảo. Họ tha hồ lượm lặt, tự ý bắt chim, bắt cá làm đồ ăn. Họ được những đồ hóa vật như gươm và ngựa bằng đồng, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, khẩu súng, ngà voi, sáp ong, đồ chiên giạ, đồ sứ".
Đoạn ghi về Hoàng Sa trong Hải ngoại kỷ sự (phần đã đánh dấu). Ảnh: T.V.Q |
Trước khi Hải ngoại kỷ sự ra đời 11 năm thì trong Toản tập thiên nam tứ chí lộ đồ thư (1687) của Đỗ Bá đã cho biết: "Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm đứng dựng giữa biển. Từ cửa biển Đại Chiêm, đến cửa Sa Vinh mỗi lần có gió Tây Nam thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đây, đều cùng chết đói hết cả. Hàng hóa thì đều để nơi đó. Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến đây lấy hàng hóa, được phần nhiều là vàng bạc tiền tệ súng đạn".
Nam Hà tiệp lục của Lê Đản biên soạn đầu triều Nguyễn (1811) ghi: "Cửa Đại Chiêm, giữa biển có dải cát dài gọi là Bãi Cát Vàng. Từ cửa biển Đại Chiêm đến dải cát dái [đó] ước chừng năm sáu trăm dặm, rộng chừng ba bốn mươi dặm, đứng ở giữa biển. Mùa gió Tây Nam thì tàu bè các nước phiêu bạt vào đấy. Đến mùa gió Đông Bắc [tàu bè] từ ngoài vào cũng phiêu bạt vào đây, đều bị chết đói, của cải được tích tụ ở đây. Hằng năm đến cuối đông 18 chiếc thuyền được đưa ra đây để nhặt lấy những của cải ấy".
Vạn lý trường sa, Bãi cát vàng, Hoàng Sa chử… trong các tài liệu nêu trên đều là những cụm từ nhằm chỉ quần đảo Hoàng Sa ngày nay. Sự tương đồng về những ghi chép giữa hai nguồn sử liệu của Việt Nam và của Trung Quốc cũng như những tài liệu của phương Tây đương thời cho thấy những hiểu biết về Hoàng Sa là phổ biến đối với những người đi lại trên khu vực này.
Đồng thời đó cũng là cứ liệu lịch sử xác thực ngay từ rất sớm, ít nhất là cuối thế kỷ 17 Việt Nam đã có các hoạt động khai thác kinh tế, kiểm soát và thực thi chủ quyền đối với khu vực quần đảo Hoàng Sa. Đó là sự thật lịch sử không thể phủ nhận".
Thạc sĩ sử học Trần Văn Quyến, quê huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, từng tốt nghiệp Cử nhân ngành Lịch sử tại đại học Phú Xuân (Huế) và Cử nhân Hán – Nôm trường Đại học Khoa học Huế. Tháng 6/2011, thạc sĩ Quyến đã công bố phát hiện bản đồ trong Khải đồng thuyết ước, sách giáo khoa dạy trẻ học vỡ lòng bằng chữ Hán thời vua Tự Đức, có vẽ về Hoàng Sa, và là người phát hiện những ghi chép về Hoàng Sa và Đội Hoàng Sa trong Nam Hà tiệp lục. Mới đây, thạc sĩ Trần Văn Quyến cũng tham gia viết chuyên đề “Hoạt động của đội Hoàng Sa trong lịch sử” trong đề tài Font tư liệu chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, góp phần khẳng định chủ quyền Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. |
Thạc sĩ Trần Văn Quyến