Nhanh chóng tìm hiểu sâu sự cố này kết hợp trao đổi với các nhà phân tích của Mỹ và những trải nghiệm tích lũy được, tôi không ngạc nhiên với kết cục của SVB.
SVB là ngân hàng thương mại hoạt động trên toàn nước Mỹ, có vài chi nhánh ở nước ngoài (Israel, Đan Mạch, Đức, Trung Quốc...), được thành lập năm 1983, với mục đích chuyên cho vay các doanh nghiệp công nghệ, sức khỏe, khởi nghiệp (startups)..., và phương châm hoạt động là "đối tác tài chính của nền kinh tế đổi mới sáng tạo".
Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ trên nền tảng đổi mới sáng tạo, lượng tiền gửi tại ngân hàng này tăng nhanh, từ 60 tỷ USD vào quý 1/2020 lên đến 175 tỷ USD cuối năm 2022. Tổng tài sản của SVB cuối năm 2022 là 212 tỷ USD (bằng một nửa quy mô nền kinh tế Việt Nam).
Sự cố diễn ra rất nhanh, điển hình của trường hợp phá sản ngân hàng do mất thanh khoản.
Sự việc bắt đầu bùng nổ ngày 8/3 khi Tập đoàn Tài chính SVB - công ty mẹ của SVB - thông báo lỗ 1,8 tỷ USD sau khi phải bán các khoản chứng khoán trị giá 21 tỷ USD và dự kiến phát hành thêm 2,25 tỷ USD cổ phiếu mới để tăng năng lực tài chính, bù đắp các khoản lỗ. Sự việc không đến mức tồi tệ nếu như hôm đó, Tổ chức xếp hạng tín nhiệm không đánh tụt hạng SVB, dẫn đến giá cổ phiếu giảm 60% ngày 9/3, cùng với việc một số Quỹ đầu tư mạo hiểm lớn khuyến nghị các doanh nghiệp trong danh mục đầu tư của các Quỹ này rút tiền khỏi SVB. Ngay trong 9/3, khách hàng ồ ạt rút tiền (khoảng 42 tỷ USD tính đến cuối ngày), bất chấp các cuộc điện thoại hay phát ngôn trấn an của lãnh đạo SVB. Sang sáng 10/3, cổ phiếu SVB tiếp tục mất giá thêm 60% và bị buộc rơi vào trạng thái chấm dứt giao dịch.
Điều này đã khiến Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (FDIC) ra quyết định chấm dứt hoạt động của SVB ngay trong phiên giao dịch 10/3 và thông báo khách hàng có bảo hiểm tiền gửi (chỉ chiếm khoảng 13% trong tổng lượng tiền gửi 175 tỷ USD) sẽ được chi trả bồi thường trực tuyến trong ngày 13. Các trường hợp còn lại sẽ được tạm ứng một phần tiền đền bù cho khoản tiền gửi của họ vào tuần tới. Các khoản tiền vay vẫn thực hiện thanh toán bình thường theo hợp đồng. Doanh nghiệp và cá nhân không có bảo hiểm tiền gửi cho phần tiền vượt hạn mức của FDIC có thể mất một lượng tiền đáng kể nếu việc thanh lý tài sản không diễn ra suôn sẻ.
Có bốn nguyên nhân chính dẫn đến việc SVB phá sản. Một là, mô hình hoạt động có vấn đề. SVB tập trung quá nhiều vào một số ít lĩnh vực, đó là công nghệ, đổi mới sáng tạo, dịch vụ sức khỏe trong khi đây là những lĩnh vực rủi ro, có nhiều biến động nhanh khi nền kinh tế có sự điều chỉnh, suy giảm tăng trưởng từ đầu 2022 đến nay.
Hai là, hoạt động thiếu bền vững. Chức năng chính của một ngân hàng thương mại là huy động vốn (phần lớn là từ tiền gửi dân cư, thường chiếm khoảng 60-65%, còn lại là tiền gửi tổ chức, doanh nghiệp) để cho vay (hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề). Trong khi đó, SVB chủ yếu nhận tiền gửi từ doanh nghiệp công nghệ, từ các quỹ đầu tư mạo hiểm. Những nguồn vốn này không ổn định, nên khi cần, các doanh nghiệp, quỹ đầu tư rút ra để thanh toán nghĩa vụ đáo hạn. Lượng tiền gửi này thường ít được mua bảo hiểm tiền gửi (do đa số là của tổ chức, không phải của cá nhân), và khi được bồi thường cũng khá khiêm tốn (tối đa 250.000 USD theo luật hiện hành của Mỹ) so với lượng tiền gửi của mỗi khách hàng (lên đến hàng triệu USD). Đây cũng là lý do chỉ khoảng 13% lượng tiền gửi của ngân hàng này là có bảo hiểm.
Ba là, khả năng phân tích, dự báo và quản lý rủi ro có vấn đề. Nguồn gốc sự kiện phá sản của SVB được nhìn nhận là do hoạt động kinh doanh, chủ yếu là kinh doanh trái phiếu, thua lỗ. Theo đó, trong năm 2020-2022, với lượng tiền gửi của khách hàng tăng mạnh, SVB đã mang đi đầu tư trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu được thế chấp bằng các khoản vay mua nhà với hy vọng lãi suất còn ở mức thấp lâu dài. Tuy nhiên, với việc Fed tăng lãi suất nhanh để đối phó với lạm phát từ đầu 2022, giá trị những khoản đầu tư này giảm mạnh, bị chiết khấu nhiều hơn và gây thua lỗ. Theo báo cáo thường niên cuối 2022, SVB đang nắm giữ hơn 90 tỷ USD trái phiếu, tuy không phải định giá lại thường niên nhưng theo ước tính thì giá trị chỉ còn khoảng 76 tỷ USD và khoản lỗ chưa ghi nhận là 15 tỷ USD. Việc dùng nhiều vốn ngắn hạn (từ tiền gửi của khách hàng) để đầu tư dài hạn cũng cho thấy rủi ro chênh lệch kỳ hạn, rủi ro thanh khoản lớn như thế nào.
Đồng thời, việc lãi suất tăng nhanh khiến dòng tiền đầu tư vào các công ty công nghệ và startups giảm dần, khiến họ phải sử dụng tiền gửi tại SVB để trang trải chi phí gia tăng. SVB buộc phải bán các trái phiếu này để có tiền chi trả, nhưng càng bán, càng lỗ, phải lên phương án phát hành thêm cổ phiếu để bù đắp. Nhu cầu huy động vốn cổ phiếu tăng bất thường gây lo ngại cho các quỹ đầu tư mạo hiểm, các doanh nghiệp gửi tiền, và họ đã đồng loạt rút tiền.
Bốn là, khâu truyền thông và xử lý rủi ro thanh khoản không tốt, dẫn đến không những không thuyết phục được khách hàng giữ lại tiền mà còn gây thêm bất an, khiến họ càng rút tiền nhanh, còn nhà đầu tư thì xả bán cổ phiếu, khiến giá cổ phiếu tụt không phanh.
Ngoài ra, việc một số quỹ đầu tư lớn khuyến nghị khách rút tiền và Tổ chức định hạng tín nhiệm Moody’s hạ tín nhiệm SVB cũng đổ dầu vào lửa.
SVB phá sản có ít nhất bốn tác động chính. Thứ nhất, với người gửi tiền của SVB: những khách hàng có bảo hiểm tiền gửi, sẽ sớm nhận bồi thường tối đa 250.000 USD từ 13/3; những khoản không có bảo hiểm tiền gửi sẽ phải chờ FDIC bán tài sản và trả lại sau (một dự báo cho biết, khả năng cao sẽ lấy lại được khoảng 80-85%). Tuy nhiên, nhiều khách hàng là công ty công nghệ sẽ không có tiền trả lương nhân viên trong khi chờ đợi, đây là điều mà các cơ quan chức năng Mỹ đang tính đến khả năng "giải cứu" bằng cách hỗ trợ số tiền lương này. Khó khăn về dòng tiền, sa thải nhân viên trong ngắn và trung hạn mà lĩnh vực này gặp phải càng lớn hơn. Đây cũng là vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Mỹ năm 2023.
Thứ hai, với thị trường tài chính Mỹ, việc đóng cửa SVB có thể sẽ khó gây ra hậu quả lan truyền trên thị trường tài chính khi đã được can thiệp sớm từ FDIC và do SVB là ngân hàng đặc thù, với nhóm khách hàng ngách, hoạt động chủ yếu trong nước Mỹ (ngoài một vài chi nhánh tại Anh, Đức, Đan Mạch, Israel...). Nhưng một số ngân hàng có quy mô nhỏ, có mô hình hoạt động tương tự đã và đang chịu ảnh hưởng với giá cổ phiếu giảm, khách hàng rút tiền, chất lượng tín dụng có vấn đề hơn... đang là vấn đề mà các cơ quan chức năng của Mỹ quan tâm xử lý. Sự cố này cũng có thể sẽ khiến Fed xem xét và điều chỉnh nhẹ kế hoạch điều hành lãi suất thời gian tới.
Thứ ba, đối với thị trường tài chính toàn cầu và Việt Nam: sự việc có tác động nhưng không nhiều, chỉ số chứng khoán toàn cầu đã và đang giảm nhẹ, còn biến động trong ngắn hạn. Tuy nhiên, việc huy động vốn của các công ty công nghệ, startups toàn cầu sẽ khó khăn hơn và bị đánh giá rủi ro hơn, nên có thể sẽ phải trả lãi suất cao hơn.
Thứ tư, sự cố SVB có thể gây ảnh hưởng về tâm lý cho người gửi tiền, nhà đầu tư... khiến họ trở nên thận trọng hơn, đa dạng hóa hơn, điều này cũng có điểm tích cực là thị trường trở nên an toàn, lành mạnh hơn và bớt bong bóng hơn. Mặc dù vậy, tác động như thế nào sẽ còn phụ thuộc vào quyết sách, hành động và giải pháp của của giới chức Mỹ thời gian tới.
Bài học kinh nghiệm ở đây là gì?
Một là, các tổ chức tài chính, ngân hàng cần quan tâm đến cả hai vế trong hoạt động: tăng trưởng trong kiểm soát được rủi ro, trong đó cần đa dạng hóa và quản lý các loại rủi ro chính, và cần phát triển bền vững.
Hai là, thị trường tài chính vốn rất nhạy cảm, hiệu ứng tâm lý đám đông mạnh, vì vậy minh bạch, kỷ luật thị trường cùng với nâng cao hiểu biết của người dân, doanh nghiệp về dịch vụ tài chính, và hiệu quả truyền thông là rất quan trọng.
Ba là, dù tính thị trường ở đây là cao, vai trò, năng lực và hiệu quả của các cơ quan giám sát cũng quan trọng không kém. Với trường hợp SVB, rõ ràng, cơ quan giám sát ngân hàng của bang này chưa có những cảnh báo kịp thời.
Bốn là, mỗi quốc gia cần có một màng lưới an toàn tài chính, trong đó cần quan tâm đến rủi ro hệ thống, rủi ro liên thông giữa ngân hàng, chứng khoán, bất động sản và nền kinh tế thực, cần có sẵn cơ chế xử lý khủng hoảng để có thể phản ứng nhanh, bài bản, hiệu quả, trong đó các cơ quan thanh tra - giám sát cần độc lập hơn, vai trò bảo hiểm tiền gửi cũng cần rõ nét hơn.
Cấn Văn Lực