Sài Gòn hơn 200 năm trước từng có hệ thống thành Quy và Phụng kiên cố để phòng thủ với kiến trúc kiểu phương Tây, thể hiện tư duy quân sự hiện đại và tự chủ trong việc thực thi chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, cả hai thành đều bị phá bỏ. Đối chiếu với bản đồ ngày nay, hai thành cổ này nằm gọn trong khu vực trung tâm quận 1 và 3, TP HCM.
Theo nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển trong cuốn Sài Gòn năm xưa, năm 1788 Nguyễn Ánh giành lại được đất Gia Định từ quân Tây Sơn và chọn nơi đây làm kinh đô, đặt tên là Gia Định kinh và ra lệnh xây thành Phiên An (còn gọi là thành Quy) - do hai sĩ quan công binh người Pháp là Olivier de Puymanel và Le Brun vẽ họa đồ - phải huy động tới 30.000 dân phu, thầy thợ đắp thành.
Thành Phiên An được xây kiên cố theo kiến trúc Vauban (kiến trúc phòng thủ do một kỹ sư người Pháp thiết kế) nhưng mang hình bát quái, theo phong thổ Á Đông. Thành được xây rất kiên cố với 3 lớp bảo vệ: lớp trong cùng là tường xây bằng đá cao 6,3 m, chân tường dày 36,5 m; lớp giữa là hào rộng với bề ngang 76 m, sâu 6,8 m có nhiều cầu bắc qua và lớp ngoài là lũy bằng đất với chu vi gần 4.000 m.
Trên thành có nhiều tháp canh hình bát giác, bên cạnh có thang dây. Trong tháp có quân canh gác, có việc gì bất ổn thì ban ngày treo cờ hiệu, ban đêm treo đèn hiệu. Các quân sĩ trong thành cứ theo hiệu báo đó mà điều binh. Đối chiếu với vị trí hiện nay, Phiên An nằm giữa 4 con đường Đinh Tiên Hoàng (Đông) - Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Tây) - Lê Thánh Tôn (Nam) - Nguyễn Đình Chiểu (Bắc).
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, người có rất nhiều công trình nghiên cứu về Sài Gòn, Phiên An là ngôi thành đồ sộ nhất trong lịch sử nhà Nguyễn. Lúc đầu được gọi là "Bát Quái", do có 8 cửa, bên trong thành xẻ 4 đường ngang, 4 đường dọc thành những ô vuông. Thoạt nhìn bản đồ giống như con rùa khổng lồ nên hay gọi là thành Quy.
Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi vua, hiệu là Gia Long, dời kinh đô từ Gia Định kinh (Sài Gòn) về Huế. 9 năm sau kinh thành Huế được xây, Gia Định kinh được đổi thành Gia Định thành và trở thành thị sở của quan Tổng trấn Nam Kỳ.
Khi làm Tổng trấn Gia Định thành, năm 1830 Tả quân Lê văn Duyệt đã cho xây thành Bát Quái cao thêm một thước rưỡi và dùng toàn đá ong, càng kiên cố. Vì việc sửa thành, cộng với hiềm khích trước đó, vua Minh Mạng (nối ngôi Gia Long) đã khép Lê Văn Duyệt tội nhị tâm (hai lòng) và cho san bằng mồ mả ông sau khi mất.
Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự biến Lê Văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt nổi loạn, đánh chiếm thành Bát Quái và 6 tỉnh Nam Kỳ (1833-1835). Để đánh bại Khôi, Minh Mạng đã huy động hàng chục nghìn quân thủy, bộ vào Nam, bao vây chặt thành Phiên An. Tuy nhiên, do thành được xây dựng chắc chắn, bên trong lại có đủ khí giới và lương thực nên phải mất 2 năm mới chiếm được.
Sau khi dẹp binh biến Lê Văn Khôi, vua Minh Mạng cho phá bỏ thành Bát Quái. Đến năm 1836 ông ra lệnh xây thành mới là Gia Định (còn gọi là thành Phụng) với khoảng 10.000 binh lính, dân chúng bốn tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long và Định Tường làm việc ròng rã trong hai tháng.
Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, thành Gia Định có chu vi khoảng 1.960 thước, cao 4,7 m, hào rộng 52 m và sâu hơn 3 m. Thành cũng được xây bằng đá ong Biên Hòa và theo mẫu kiến trúc Vauban nhưng nhỏ, dễ bị bắn phá hơn vì chỉ có 4 pháo đài (thành Bát Quái cũ có 8 pháo đài).
Gia Định nằm ở góc Đông Bắc thành cũ, nay là khu vực giữa 4 con đường Nguyễn Du, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngày 17/2/1859, quân Pháp tấn công thành Gia Định bằng 32 ổ mìn, hỏa thiêu tan tành thành Phụng, chỉ còn lại những đống gạch vụn.
Theo thống kê, lửa đã thiêu hủy 2.000 cây súng cổ và gươm, giáo; 85 thùng thuốc súng và rất nhiều bì súng, hỏa pháo, diêm sinh, tiêu thạch, chì...; lúa trữ trong kho nuôi 6.000-8.000 nhân khẩu trong năm (trị giá khoảng 3 triệu france); tiền bản xứ (điếu và kẽm), ước trị giá bằng 130.000 France.
Do có nhiều lúa gạo, vụ cháy kéo dài đến cả tuần. Dấu tích duy nhất còn lại của thành Phụng ngày nay là bức tranh vẽ ảnh người Pháp tấn công thành và những tàn tích dọc đường Đinh Tiên Hoàng về phía gần xưởng Ba Son.
Về dấu tích của thành Bát Quái, theo cố học giả Vương Hồng Sển, năm 1926, khi đào móng xây cao ốc ở góc đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) và Gia Long (Lý Tự Trọng), người ta phát hiện nhiều đá ong lục lăng nên có thể khẳng định đó là chân cũ vách thành Gia Long xây năm 1790. Một di tích khác cũng của thành Quy được đào thấy năm 1935 tại nhà thương Đồn Đất (Bệnh viện Nhi Đồng 2), nay ở góc đường Lý Tự Trọng và Chu Mạnh Trinh.
Còn theo nhà bác học Trương Vĩnh Ký, trung tâm thành Quy ở nhà thờ Đức Bà hiện nay - khi xưa có dựng cờ lệnh to lớn. Lúc đào nền móng để xây nhà thờ gặp lớp tro, cây, gạch và đá cháy lụn vụn dày 0,3 m - có thể là di tích kho lương của Lê Văn Khôi bị đốt năm 1835. Trong đống tro này, thợ đào đất đã gặp ngổn ngang xác tiền điếu, tiền kẽm bị lửa cháy kẹo quánh lại thành khối, có cả đạn súng to bằng gang sắt, bằng đá khối...
Theo các nhà nghiên cứu, thành Phiên An tồn tại 45 năm và thành Gia Định 23 năm. Hai thành trì có một số mệnh, tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại những dấu ấn oai hùng trong lịch sử mở nước và giữ nước của quân dân Nam Kỳ Lục tỉnh. Nếu thành Quy thể hiện tư duy quân sự mang dáng dấp văn minh hiện đại của phương Tây, thì thành Phụng hoàn toàn do người Việt xây - chứng tỏ tính tự chủ trong thực thi chủ quyền quốc gia.
Trung Sơn