Thanh Huyền -
Danh tiếng là phù du nhưng phần lớn các nhà văn vẫn luôn dằn vặt vì cái sự vô danh tiểu tốt của mình. Samuel Beckett thì ngược lại, ông coi danh tiếng là "thứ đáng nguyền rủa".
Dẫu vậy, đến nay, kịch của ông vẫn được công chúng đón nhận một cách nồng nhiệt. Những cuộc hội thảo vẫn liên tục diễn ra, từ Dublin đến Oxford, Paris đến Tokyo, Ankara đến Odense... nhằm tìm hiểu sâu hơn về con người và những sáng tác của ông. Một tuyển tập tác phẩm của nhà văn cũng vừa được Grove Press xuất bản với những lời giới thiệu của các tác giả hậu thế xuất sắc như Colm Tóibín, Salman Rushdie, Edward Albee và J.M. Coetzee.
Không giống như một số nhà văn khác chỉ được độc giả biết đến khi đã yên giấc nghìn thu, Beckett nổi tiếng chỉ một thời gian ngắn sau khi dấn thân vào nghiệp văn chương và sống trọn cuộc đời trong vòng hào quang tỏa ra từ các trang viết của chính mình. Vốn là một nhà văn vô danh Ireland, chủ yếu viết bằng tiếng nước ngoài, lại đề cập đến những nhân vật kỳ quặc sống trong một thế giới bất bình thường, nhưng cùng với sự xuất hiện của Trong khi chờ đợi Godot, Tàn cuộc, sự nổi danh bất ngờ đã gây sửng sốt cho chính bản thân Beckett.
Với đôi mắt xanh biếc sắc lạnh, khuôn mặt gầy hốc hác chằng chịt những nếp nhăn, mái tóc trượt dài về sau như không che nổi những suy nghĩ lộ thiên trên vầng trán..., ngoại hình của Beckett thường để lại cho người đối diện những ấn tượng mạnh. Càng tôn thờ cuộc sống riêng tư, càng cố tránh xa những hội hè văn chương, ông càng có duyên với các giải thưởng và những lễ tôn vinh. Đoạt giải Nobel năm 1969, Beckett bất đắc dĩ phải nhận bởi trước đó vài năm Sartre đã từ chối. Nếu tiếp tục làm theo cách của Sartre, ông sẽ chỉ thêm phần nổi tiếng mà thôi. Chính vì vậy, nhà văn đã cử người đại diện sang Thụy Điển nhận giải và kín đáo phân phát số tiền thưởng của mình cho những cá nhân, tổ chức cần đến sự trợ giúp.
![]() |
Nhà văn Samuel Beckett. Ảnh: Boston |
Sinh ngày 13/4/1906 tại Foxrock, Dublin trong một gia đình khá giả, Samuel Barclay Beckett theo học Văn học Pháp và Văn học Italy tại trường Trinity College. Sau khi tốt nghiệp, ông sang Pháp dạy tiếng Anh tại Đại học sư phạm Paris. Năm 1928, ông gặp James Joyce tại Paris và nhanh chóng kết thân với nhà văn đồng hương này. Thời gian đó, Joyce đang viết Finnegans Wake và Beckett tình nguyện làm thư ký cho ông. Mối quan hệ của họ có thể sẽ còn gắn kết lâu dài hơn nếu không có sự can thiệp từ phía vợ của Joyce. Bà Nora cho rằng, chính Beckett là người phải chịu trách nhiệm trước căn bệnh tâm thần phân liệt của con gái họ. Lucia - con gái Joyce - yêu Beckett nhưng không được ông đáp lại.
Beckett rời Paris đến London năm 1933. Năm 1938, nhà văn phải vào bệnh viện vì vết đâm của một tên ma cô khi ông từ chối cho hắn tiền. Cũng năm này, cuốn tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh Murphy của ông được xuất bản, đánh dấu nỗ lực vượt thoát ra ngoài những ảnh hưởng sâu sắc của Joyce, Beckett đã bắt đầu tìm được tiếng nói riêng của mình. Chiến tranh thế giới II bùng nổ đưa ông trở lại Paris. Tuy là một người nước ngoài lại không thiết tha gì với chính trị nhưng ông vẫn tham gia vào phong trào kháng chiến bí mật của Pháp. Trước nguy cơ bị lộ, ông chạy khỏi Paris đến vùng bờ biển Atlantic cùng Suzanne Dechevaux-Dumesnil - một sinh viên piano người Pháp (về sau trở thành vợ ông, họ kết hôn năm 1961). Khi nhận được tin Beckett nhận được giải Nobel, chính Dumesnil đã thốt lên: "Đúng là một tai họa".
Trong những tháng ngày nhàn hạ suy tính về đường đi nước bước tiếp theo của cuộc đời mình, nhà văn thường gặp gỡ Marcel Duchamp - một nghệ sĩ bí ẩn và là một tay cờ cự phách. Beckett thường xuyên bị Duchamp hạ đo ván trên bàn cờ. Năm 1942, Beckett nhận huân chương Croix de Guerre - huân chương được nhà nước Pháp trao tặng cho các cá nhân hoặc đơn vị có thành tích trong Chiến tranh Thế giới lần II. Thời gian này ông cùng Suzanne Dechevaux-Dumesnil sống trong một ngôi làng nhỏ ở miền nam nước Pháp. Người dân nơi đây không hề biết đến tiếng Anh, nhà văn cũng không có bất cứ một sách vở hoặc tài liệu gì bằng tiếng Anh để đọc. Đây là một trong những yếu tố khiến Beckett quyết định rời bỏ ngôn ngữ mẹ đẻ của mình, chuyển sang viết hoàn toàn bằng tiếng Pháp.
Trong cuốn tiểu thuyết viết trước chiến tranh - Murphy - Beckett mở đầu: "Mặt trời soi sáng, như không thể nào khác, trên những sự vật chẳng có gì là mới". Bộ ba tiểu thuyết sau chiến tranh của ông dường như còn có ít sự lựa chọn và ít ánh sáng mặt trời hơn. Nhưng chính "cái không mới" trong những thế giới trần trụi và kỳ quặc được tạo ra trong sáng tác của ông lại chính là một luồng gió mới thổi trên văn đàn. Molloy, tác phẩm đầu tiên trong bộ ba là cuốn sách mang nhiều tính chất tiểu thuyết nhất. Còn trong Malone chết và Vật không tên, tầm nhìn tiểu thuyết dường như ngày càng trở nên hạn hẹp và mơ hồ; hành động, sự kiện, nhân vật không còn ở những dạng thái cụ thể, vật chất; chuyện không còn được kể lại trong những sườn cốt thông thường mà đã teo lại thành một dòng độc thoại nội tâm.
Cùng với Trong khi chờ đợi Godot và Tàn cuộc, tên tuổi của Beckkett không thể không nổi danh trên văn đàn thế giới, gắn liền với những thế giới nghệ thuật kỳ dị và đầy sáng tạo.
(Nguồn: Boston)