Đàn gà này phải "chắt chiu" từ những "tháng ba ngày tám". Ấy là lúc mới Tết xong, cái mồm quen ăn ngon với những bánh chưng, giò, chả trệu trạo trở lại nhịp sống bình thường chỉ có canh nấu tóp mỡ và cơm trắng.
Những quả trứng đẹp nhất, được bà soi và kiểm tra rất kỹ theo kinh nghiệm riêng mà chỉ bà mới biết, kết luận là "có trống", tức là đủ âm dương, được mang ra để con gà mái duy nhất "có thâm niên" ấp và gây đàn.
Bà phải đấu tranh ghê lắm với lũ cháu và cả với chính mình để mấy chục quả trứng kia không bị cho vào chảo rán trước những cái miệng tóp tép thèm ăn, thiếu ăn. Thương cháu, nhiều lúc bị chúng vật nài, muốn gật đầu quách cho rồi nhưng ăn thì hết, trong khi gây đàn thì còn được bao nhiêu con gà nay mai.
Lúc ấy chúng tôi nào biết bà dằn vặt thế nào. Chỉ biết, trời cuối xuân rét buốt da, chạy nhảy nhiều thì nhanh đói. Đói mấy mà về mở lồng bàn ra mâm cơm choen hoẻn bát tương dầm vài quả cà bát thái nhỏ với nồi canh truyền thống là cải thìa vừa nhạt vừa lõng bõng thì chỉ muốn òa khóc. Giận bà lắm. Ai biết, lúc ấy bà ngồi canh con gà ấp, những nếp nhăn cũng xô hết cả lại trên gương mặt nhẫn nhịn.
Rồi chỉ chừng hai chục ngày sau, một đàn gà con lông vàng như nắm bông con con ùa cả ra sân trong cái nắng hiếm hoi trên đôi chân bé như hai que tăm. Bà chăm lắm. Vì trời nồm, đất ẩm, có khi mưa sì sũng cả tháng trời, lá cây hoai mục, lên mốc, gà ốm chết như chơi.
Mỗi sáng ra thăm chuồng gà, một con nằm cứng đờ đôi chân chổng lên trời là bà xậm mặt lại. Bà mang chôn con gà xấu số dưới những gốc cây trong vườn. Suốt mười mấy năm thơ bé, không biết bao nhiêu lần tôi nhìn thấy bà cầm chiếc xẻng nhỏ, xúc lên xẻng đất, đặt con gà xuống rồi nhẹ nhàng lấp đất lên. Mỗi lần như thế, khuôn mặt bà như nặng trĩu một nỗi niềm khó tả.
Gần trăm con nở, choai choai nhông nhổng chỉ còn lại bảy, tám chục con. Thế mà sáng nào cũng như hội. Bà dậy sớm mở cửa chuồng, đàn gà đã chờ sẵn để nhào ra. Mấy đứa chúng tôi thì chuẩn bị sẵn rổ ngô, đấu thóc vãi tung tóe. Bọn gà cũng như trẻ con, tranh nhau ăn, mổ nhau chí chóe. Ăn no thì ra chậu nước tranh nhau uống lấy uống để rồi túa ra khắp vườn. Con thì vỗ cánh phành phạch, con thì gà gật trong bóng cây, có lũ lại phởn chí chọi nhau chí mạng.
Đàn gà trổ mã cũng là lúc lũ chúng tôi tranh nhau "xí phần". Những con mái mơ, trống hoa mơ, mào cờ đẹp mã bao giờ cũng "có chủ" đầu tiên. Đôi khi hai ba đứa cùng tranh một con, cãi nhau kịch liệt, phải phân xử bằng vài bữa rửa bát, lau nhà hộ. Rồi đâu cũng vào đấy, mỗi đứa nhận khoảng gần chục con. Còn lại những con xâu xấu, be bé thì... là của bà.
Nhận thế để mỗi đứa đều "có trách nhiệm" với gà của mình hơn. Chả hạn, nửa buổi khi thái khoai luộc cho gà ăn thì gà của đứa nào đứa nấy ném cho miếng to hơn, ngon hơn. Không phải gà của mình thì chỉ được ăn vỏ, ăn đầu mẩu thôi. Rồi thái thân chuối, rau lang cho gà ăn, tất tật đều có sự "ưu tiên".
Nhất là khi hè đến, chúng tôi được nghỉ hè, dành toàn thời gian ăn chơi và chăm gà. Nhà gần cánh đồng, sáng sáng chiều chiều cả lũ ào ra câu nhái. Những con nhái, đôi khi cả chẫu chàng béo mẫm, hai cái đùi to như đùi ếch mang nặng giỏ về đập sơ cho ngắc ngoải rồi cứ thế tung ra vườn. Đàn gà nháo nhác, chạy theo những cú nhảy của nhái, vồ tán loạn.
Như chúng tôi tranh gà, gà cũng tranh nhau nhái. Có khi hai con cùng cặp mỏ vào một con nhái, giằng co, chẳng con nhào chịu nhả, cứ khư khư như thế lôi nhau ra đến tận góc vườn rồi một con khỏe hơn ở đâu chạy đến cướp được, nuốt trộn. Hai con ngơ ngác nhìn cả đàn đã no nê phởn phơ mà mình chả được miếng nào.
Có những con tham, xực được nhái to quá, cứ vươn cổ lên duỗi dài ra, trợn mắt mà nuốt. Phải gà của đứa nào, đứa nấy xanh mặt, chỉ lo nó chết nghẹn. Cả lũ ào vào, tóm lấy gà, vuốt cổ cho nó trôi xuống, thở phào nhẹ nhõm. Có khi rỗi việc, chúng tôi còn mang gà ra tỉa lông, tắm rửa, chăm như chăm em bé.
Nhiều lúc trưa nắng trài trãi, mẹ gọi về ngủ, chẳng đứa nào nghe. Cứ mỗi đứa một con gà, thủ thỉ thù thì chuyện trò với nhau. Nói là chuyện trò cho oai, chứ thường người đóng cả hai vai, nói cả phần mình lẫn phần gà. Chả biết con gà nghe có hiểu gì không mà mắt mũi lim dim hết cả lại. Có khi nó buồn ngủ quá chừng. Mà cũng có khi nó cứ giả vờ nhắm mắt thế để khỏi phải bị dúi đầu, gật, lắc theo từng câu hỏi của chủ.
Mẹ tôi thì lo ra mặt. Suốt ngày quẩn quanh bên gà, ôm ấp gà, màn mạt gà bám đầy người, lại còn nói chuyện với gà, liệu có đứa nào bị... lẩn thẩn không? Chắc mẹ có những bài "kiểm tra" một cách âm thầm, thấy chúng tôi vẫn linh lợi, hoạt bát, chẳng đứa nào có dấu hiệu gì lạ ngoài... yêu gà. Thế là mẹ yên tâm.
Vả lại, suốt ba tháng hè được giải phóng khỏi sách vở, nếu không có đàn gà giữ chân, thể nào chúng tôi chả tìm cách khác để chơi. Lên núi hái hoa ngắt quả, ra sông bơi lội đều nguy hiểm cả. Nuôi gà vừa có ích lại tạo niềm hăng say lao động. Mẹ đỡ lo hẳn.
Bọn tôi có mẹ ủng hộ lại càng hăng tợn. Cả ngày chỉ quanh quẩn bên gà. Sáng ào ra chăm gà, tối còn lo đếm gà về hết chuồng chưa. Một con đi lạc là cả lũ nháo nhác, nhập nhoạng chạy sang khắp bốn bề hàng xóm hỏi han xem có thấy gà của mình không, chui ra bờ sông, vạch hết bờ rào bờ giậu để tìm gà. "Đón" được gà về rồi, ôm khư khư nó vào người, nhẹ nhàng thả nó vào chuồng, "chúc gà ngủ ngon" như... trong phim.
Chị tôi còn nghĩ ra "thiết bị chuông chống trộm" bằng cách buộc vỏ lon sữa bò vào những cành tre dấp cửa chuồng gà. Nếu trộm vào kéo cành tre ra để bắt gà, những lon sữa bò lăn kêu loong coong, chúng tôi chỉ việc ào ra tóm gọn.
Đêm nào trước khi đi ngủ cả lũ cũng nằm nghĩ ra đủ viễn cảnh thằng trộm sẽ vào chuồng thế nào, rón rén đi vòng quanh ra sao, chưa kịp hoàn hồn vì nghe tiếng "chuông" kêu ầm ĩ thì đã bị chúng tôi úp thúng vào đầu, ngã lăn quay ra đất chịu trói, thật hả hê.
Không những oang oang kể với nhau, chúng tôi còn tranh xem ai xông ra trước, ai cầm dây, ai cầm thúng. Trộm mà đứng ngoài nghe thấy cũng sẽ cảm động rưng rưng vì không ngờ được chúng tôi chào đón thịnh tình thế.
Cơ mà cũng chỉ ồn ào được dăm mười phút, cãi nhau chán, cả lũ lăn ra ngáy khò khò. Trộm có vào nhà khiêng cả người quẳng ra khỏi giường cũng chả biết, nói gì đến bắt trộm.
Lúc đó chỉ có bà tôi là thao thức, nghe ngóng từng tiếng gió ngoài hiên, từng tiếng chó sủa xa gần đến cả tiếng những chú gà phởn chí tập gáy cứ è e trong cổ chả theo giờ giấc nào.
Rồi cũng đến lúc những chú gà trống choai hăm hở thi nhau những tiếng gáy vỡ giọng đầy háo hức. Cứ hàng loạt chục con một đứng giữa vườn, vỗ cánh phành phạch, gáy tế lên ầm ĩ. Buổi trưa yên tĩnh thành ra bị phá vỡ bởi những tiếng gáy nghe thật buồn cười.
Đấy cũng là lúc những cô gà mái dáo dác tìm chỗ đẻ. Bà đã lót những chiếc ổ rơm mới bện tròn, sạch tinh tươm từ lúc nào đặt sẵn trong chuồng. Thế mà có những cô mót đẻ, túc bục tranh nhau, mổ nhau đỏ văng mặt mày rồi loanh quanh đẻ tọt cả ra bếp tro. Có cô còn nhảy cả vào nhà, nằm lên tấm giẻ chùi chân mà đẻ.
Những quả trứng "con so" hồng hồng xinh xinh vương những giọt máu đỏ được chúng tôi nâng niu nhặt lên từ ổ, chuyền tay nhau cầm ngắm nghía như "chiến lợi phẩm" hậu hĩnh. Gà đứa nào đẻ trước, đẻ nhiều thì đương nhiên được vênh mặt. Gà của đứa nào chưa đẻ thì bị ngắm lên ngắm xuống, đốc thúc cho ăn rõ nhiều chờ những quả trứng đầu tiên.
Mỗi ngày có thêm một niềm vui mới là đi nhặt trứng gà. Trong ổ thì dễ quá rồi nhưng chẳng phải lúc nào gà cũng đẻ đúng chỗ của mình. Nhiều khi đang tha thẩn chơi ở bờ tre gốc chuối, cả lũ sáng mắt lên khi thấy vật tròn tròn, trăng trắng. Đích thị gà đẻ lang. Đứa thì háo hức mang về nhà, đứa ở lại vạch khắp các chỗ gà có thể đẻ để tìm thêm còn có quả trứng nào nữa không.
Cứ mỗi lần tìm được một quả trứng, tiếng reo hò vang dậy cả khu vườn, kéo những bước chân khác rầm rập chạy đến. Từ đó chúng tôi có thói quen tìm kiếm, nhặt nhạnh chứ không chỉ vô tâm chơi bời thỏa thích chả để ý gì đến xung quanh mình nữa.
Thế mà rổ trứng cũng chả bao giờ được đầy vì những cái miệng ngày nào cũng hau háu chờ đợi. Chiếc chảo gang đen bóng bồ hóng khô cong quanh năm tự dưng được mang ra đánh sạch rồi cứ thế ngày qua ngày láng nhờn mỡ. Hết trứng rán rồi lại trứng xào cà chua, trứng nấu canh...
Sức ăn của lũ trẻ thiếu đạm chả bao giờ là đủ. Ăn hết trứng thì đến cái chảo trộn cơm vào vét quèn quẹt cũng được vài bát. Ăn trứng được chục ngày, chán thì chưa chán nhưng để đổi món bà mang trứng ra chợ bán, lấy tiền mua vài bìa đậu hay mấy lạng thịt.
Cứ thế rải rác mấy tháng sau, bữa ăn đỡ buồn mắt buồn lòng hơn. Chỉ ngại nhất những đợt gà mái đồng loạt nghỉ đẻ, chẳng còn gì mà ăn. Trời bắt đầu mưa thu, gà có nguy cơ bị dây, rù cả đám. Bà thì hết lo thuốc thang lại lo dọn chuồng trại sạch sẽ phòng dịch bệnh. Lũ chúng tôi không ai nói ra nhưng hễ có gà rù thì... mừng hơn mở hội. Đứa nào cũng tỏ ra lo lắng, sốt sắng giục bà... thịt đi vì sợ nó mau gầy.
Gà rù thịt thường chỉ rang. Mà nhà đông con, trừ ngày giỗ có gà luộc tất thảy đều phải rang thì còn thêm chút mắm chút muối ăn dè, thêm nước rang gà đưa cơm khi "hết nạc vạc đến xương".
Chao ôi cái miếng thịt gà thơm thơm, mặn mặn, ăn đến no căng rốn vẫn thòm thèm.
Vào năm học mới, số gà đã vơi đi phân nửa vì bệnh rù, vì phải bán bớt để lấy tiền sách vở, quần áo cho chúng tôi. Những con còn lại càng được chăm sóc kĩ càng, vì đó là cả nguồn tiêu Tết.
Trời chuyển sang đông, y như trong bài thơ của nhà thơ Xuân Quỳnh mà chúng tôi thường ra rả đọc: "Cứ hàng năm, hàng năm/ Khi gió mùa đông tới/ Bà lo đàn gà toi/ Mong trời đừng sương muối", bà cứ ngóng trời ngóng đất rồi suốt ngày tìm lá che lại chuồng, lót ổ cho ấm áp.
Càng về cuối năm bà càng chăm gà hơn. Lúc này gà đẻ ít trứng, chúng tôi cũng không được ăn nữa vì bà phải bán để mua gạo, mua thêm chăn, thêm áo. Tháng củ mật, bà hầu như thức suốt đêm, phòng nhỡ trộm vào khoắng đi một mẻ thì coi như mất Tết. Cứ một tiếng chó sủa húng hắng từ xa là bà đã bật dậy. Gió mùa đông bắc ràn rạt ngoài kia, mấy lon sữa bò cứ lăn qua lăn lại như có người kéo cành rong tre làm bà thấp thỏm không yên.
Chúng tôi lúc này còn gò lưng ra mải miết thi học kì, thi thoảng thấy bà ngồi trong nắng, ngắm gió đông thổi thốc vào đuôi gà làm những con gà xù lên như quả bóng bông, chắc chắn trong đầu bà lúc đó đã nhẩm tính những món phải chi, phải tiêu, co kéo sao liệu có đủ, có thiếu.
Sắp đến ngày nghỉ Tết, chúng tôi chợt nhớ ra chỉ nay mai là không còn gà nữa. Đứa nào đứa nấy buồn so. Cả năm trời gắn bó với nhau như bạn bè, giờ sắp phải "chia tay", không rưng rưng sao được.
Ngày học cuối cùng của năm cũng qua, cả lũ ùa về nhà, chuồng gà đã trống trơn, mỗi đứa lén ra một góc ngồi khóc. Bà chờ cơn sụt sịt nguôi ngoai rồi mới đưa ra mấy chiếc áo mới. Đúng là vui như Tết. Ướm áo vào người, tung tăng chạy khắp nơi, ngó những nải chuối, quả bưởi đã nằm ngay ngắn góc nhà, chắc mẩm năm nay Tết to.
Đấy là những năm gà còn nhiều. Chứ có năm thời tiết khắc nghiệt, còn độ hơn tháng nữa Tết mà sương giáng, gà chết hàng loạt. Ngày nào cũng có gà ăn, chúng tôi trẻ con, đâu biết bà và mẹ lo thắt ruột. Tết ấy, đứa được quần thì thôi áo, đứa được áo thì thôi quần, ngoài con gà cúng giao thừa bé nhất đàn bà để lại, chẳng có món thịt gà.
Cỗ Tết chỉ dăm miếng giò mỡ độn thật nhiều bì và mộc nhĩ, nồi canh măng lõng bõng, mấy miếng chả xiên, đứa nào đứa nấy buồn hẳn. Hai con gà mái đẻ nhiều, đẻ ngoan nhất đàn và một con gà trống cồ để lại làm giống trở thành vật báu được chúng tôi nâng niu, chỉ thiếu nước bế lên giường ngủ cùng. Cứ như thế, những năm thơ bé trôi qua trong tiếng gà, những vòng tuần hoàn của đời gà để chúng tôi khôn lớn.
Tập tản văn Tết xưa thơ bé của tác giả Hương Thị do Nhà xuất bản Kim Đồng phát hành chào mừng Tết Kỷ Hợi. Sách đưa người đọc vào không gian thị trấn nhỏ ở Bắc Bộ thập niên 1980. Cuốn sách như lời thủ thỉ của một bà mẹ, kể cho con nghe ký ức về Tết của một thời còn thiếu thốn nhưng đầy ắp yêu thương. VnExpress trích đăng tác phẩm.
>> Xem thêm: Phần đầu "Tết xưa thơ bé", Áo Tết cho con, Cành đào ngày xuân