Cứ phải có đào mới đúng là Tết. Những năm tôi thơ bé, "phong trào" trưng quất Tết chưa lan từ Hà Nội về tới các tỉnh nên ngày Tết chỉ có hoa đào.
Nhà nào khá giả, cầu kỳ hơn thì có thêm một bình hoa tươi khác gồm thược dược đủ màu, cúc vàng, violet tím. Tuy không tạo nên thế đối xứng về chiều cao, tầm vóc nhưng chính vì thế cành đào trở thành trung tâm của cả cái Tết.
Quê tôi miền trung du, thị trấn trải dài quanh co dựa lưng vào núi. Trong núi là các làng người dân tộc. Trông họ chẳng khác gì người Kinh vì mặc quần áo giống, đạp xe hay đi bộ, nói chuyện với người ngoài cũng bằng tiếng Kinh, chỉ khi nói chuyện với nhau mới dùng thứ tiếng líu lo như chim hót.
Ngày Tết họ cũng trưng cành đào. Đất vườn, đất đồi rộng mênh mông, nhà nào cũng trồng dăm ba cây đào, chẳng hẳn để ngắm cảnh, chẳng hẳn để ăn quả, cũng chẳng hẳn để cuối năm đi bán. Vì họ không bán riêng đào. Bao giờ cũng thế, đào chỉ là thứ kèm theo, khi thì buộc ngang gác-ba-ga xe đạp bu gà, khi thì bó dọc cùng gánh củi, gánh lá dong, lúc lại cắm trên xe cải tiến chở rau lang cho lợn, lúc thì tùng tằng trên quang gánh đựng ít đỗ, ít lạc.
Sáng sáng, mắt còn cay dèm dử, ngồi chầu hẫu trước cửa nhà trong cái rét cắt da thịt, ngắm những cành đào thi thoảng lại trôi qua, tôi cứ xuýt xoa hết giục mẹ lại giục bà, mua cành này đi, chọn cành này đi rồi lại tiếc rẻ khi ai đó nhanh tay đón mua mất.
Đào ta, thứ đào phai mọc gần núi, sống giữa những dương xỉ, chè xanh, dây leo rừng đủ loại, dù năm nào cũng chặt cành nhưng cành mới lên vẫn mốc thếch địa y. Cành khỏe, lộc mướt, nụ hồng chúm chím. Bây giờ chơi đào bích người ta mới cầu kì chọn thế chọn gốc. Ngày trước, mua đào phai, bao giờ bố tôi cũng chọn những cành có đủ cả hoa, cả nụ cái, nụ con để có thể chơi đến sau rằm tháng Giêng.
Cành đào mặc sức tỏa dáng tự nhiên, màu hoa hồng tươi sáng cả căn nhà tường loang mốc. Cứ mua được cành đào ưng ý, mang vào nhà ướm thử rồi mới mang ra sân, lựa cắt bớt cành nhỏ hay chặt bớt gốc đi cho vừa. Cả lũ xúm xít bâu xâu xung quanh, luôn mồm nhắc nhở nhau cẩn thận động vào cành nó rụng mất cánh hoa nhưng trẻ con láu táu, tránh sao được va quệt, kiểu gì cũng vài bông thả cánh xuống sân.
Cành đào nhỏ, mảnh mai, bố mang vào tận bếp, hối thúc chị hai đốt lá mít, lá tre sao cho lửa đều nhưng không được đùng đùng lên để khói không táp vào làm sém hoa. Cành to, anh cả phải đích thân ra tay, cầm nắm đóm to, mang ra giữa sân để châm lửa đốt gốc.
Cái lọ cắm hoa đào cũng phải kén tay người rửa. Lũ chúng tôi bé tí nhau, nhiệt tình có thừa nhưng hậu đậu cũng không thiếu thì phải tránh xa. Có năm chị hai đã rửa lọ để một góc, khi cành đào vừa được đốt gốc xong, tôi le te chạy ra bê, chân vấp phải thanh gộc tre, ngã lăn quay, chiếc lọ vỡ tan. Tôi vừa sợ vừa đau, khóc òa lên. Anh cả, chị hai mắng mỏ thậm tệ, đay nghiến tôi như kẻ phá hoại. Bố thì chẳng nói câu nào, còn mẹ tôi thì đành ngậm ngùi đi mua chiếc lọ mới.
Từ đó, chiếc lọ cắm hoa sẽ được đổ gần đầy nước, đặt ngay ở vị trí sẽ cắm hoa, bất di bất dịch ở đó cho đến khi cành đào được cắm ngay ngắn vào. Cả nhà lùi ra xa ngắm, xuýt xoa. Tôi thì càng phải lùi xa hơn.
Sáng nào tôi cũng dậy chạy ra đếm xem có bao nhiêu nụ cái sẽ nở trong ngày. Đếm đi đếm lại khiến chị tôi sốt ruột, bảo: "Mày đếm ít thôi, đừng có chỉ tay vào nụ, nó rụng mất. Đếm nhiều nó nở hết, lấy đâu ra hoa mà chơi Tết". Thế là tôi không dám chỉ tay vào từng nụ nữa, nhưng như thế thì cứ đếm lẫn lộn hết cả.
Có năm đào nở sớm, trên cành đã lác đác vài quả non, phơn phớt lông tơ, trông rất thích mắt. Bố bảo, cắm cành đào này, nhất định năm nay nhà mình sẽ có nhiều lộc. Chúng tôi cũng mong thế. Nhiều lộc, với trẻ con là bố mẹ có tiền, Tết đến được mua cả quần cả áo mới, được thỏa thích ăn thịt gà, ăn giò, ăn nem, nhiều loại bánh trái và kẹo. Thi thoảng xin tiền mua quả bóng bay thổi căng lên chơi trò đánh bóng chuyền qua chuyền lại được bà cho ngay, thế là mãn nguyện.
Có đào là có Tết, đương nhiên rồi. Không có cành đào, coi như không có Tết, điều đó không hẳn nhiên đúng với gia đình tôi. Vẫn biết, dù no dù đói, dù nghèo dù kém, cứ có cành đào bày trong nhà là thấy tưng bừng. Hàng xóm láng giềng đông đảo đến thấy nhà mình đầy đủ, lại có thêm chuyện để nói khi hỏi han, khen cành đào đẹp, lắm nụ, dự đoán năm tới làm ăn phát đạt... Còn trong nhà cỗ bàn ra sao, ăn uống những gì thì chỉ mình nhà mình và họ mạc thân thuộc, những người buộc phải mời ăn Tết biết.
Nhưng có năm, thiên hạ đã xôn xao sắm Tết rồi mà cả nhà còn phải trông chờ vào những đồng tiền tạm ứng còm cõi của mẹ. Ngày nào đi làm về gương mặt mẹ cũng sắt seo cả lại, vì rét, vì chưa có tiền. Mãi đến hai bảy Tết, chúng tôi học xong buổi học cuối cùng, mẹ cũng đi làm ngày cuối cùng, về thấy cả lũ ra cổng ngóng, mẹ không giấu nổi nghẹn ngào, khẽ nói, run run:
- Mẹ lấy được tiền rồi các con ạ.
Chỉ cần nghe thấy thế là tôi nhảy chân sáo đi chơi, trong lòng cờ hoa như đang nở rộ. Đấy là lúc cả bố, mẹ, bà và các anh chị chụm đầu bàn bạc. Một nửa tháng lương tạm ứng của mẹ là cả một bài toán khó cho cái Tết.
- Thôi thì mang con con gà mái duy nhất ra thịt, ra Giêng mang trứng sang nhờ gà hàng xóm ấp, được con nào gây giống con ấy sau.
Bà bảo vậy.
- Mua chịu thịt lợn nhà bác Trường. Nếu bác ấy không cho thì mang ít gạo ra đổi vậy.
Bố cũng bàn.
Các anh chị thống nhất không đòi áo mới, đôi dép cũng không, mang ra hàn lại, vẫn đi tốt, chỉ cần cẩn thận hơn là được. Chỉ có tôi không được hỏi ý kiến gì thì lại có một đôi dép mới. Giá đôi dép bằng một cành đào con con, nhưng nếu có được hỏi thì chắc chắn tôi sẽ chọn đôi dép chứ không phải cành đào.
Đến chiều hai chín, khi cỗ bàn tất niên đã xong, diễn đôi dép đi khắp xóm để khoe, nhìn những nhà hàng xóm tưng bừng cành đào treo đèn nhấp nháy và những quả bóng bay xanh đỏ tôi mới nhớ ra nhà mình không có đào. Tôi nằng nặc đòi mẹ. Tôi khóc lăn ra ăn vạ dù đã tắm rửa sạch sẽ từ chiều. Sẩm tối rồi, kiếm đâu ra đào bây giờ? Cả nhà ái ngại nhìn nhau. Không chừng tôi khóc qua giao thừa thì dông mất.
Bỗng chị tôi nảy ra một ý. Chị bảo anh cả soi đèn pin ra góc vườn, nhổ lên cành đào từ năm ngoái cắm ở đó. Cành đào ấy ra giêng hoa lá xum xuê tươi tốt, tôi cứ đinh ninh trồng xuống nó sẽ sống thành cây nên bắt bố cắm ở đó rồi quên bẵng đi. May là chưa bị cho vào đun nồi bánh chưng. Cành đào khô khỏng, đã rụng nhiều nhánh nhỏ nhưng vẫn ra dáng một cành đào.
Chị tôi mang đống giấy màu làm thủ công của chị ra, cầm kéo cắt tỉa một hồi. Chị vốn khéo tay nổi tiếng. Anh cả tôi vụng về nhưng cũng vẫn có nhiệm vụ mang lọ hồ nước ra ngồi chắp chắp, dán dán.
Gần đến giao thừa thì nhà tôi đã có một "cành đào" đủ hoa đỏ lá xanh, dù lá không được đúng màu lộc non và hoa thì cái đỏ cái hồng do thiếu giấy màu. Thế rồi đào cũng được cắm vào lọ. Tết năm ấy, ai đến nhà cũng giấu nỗi cám cảnh bằng lời khen:
- Các con anh chị khéo tay nhỉ.
Tôi thấy bố mẹ tôi cười, mắt ầng ậng nước.
Từ đấy, những cành đào sau xuân thường được phơi khô cẩn thận phòng năm sau thiếu thốn. Cứ gần Tết là chị tôi lại lo tích cóp giấy màu, cả giấy trang kim. Chị chẳng mong được trổ tài khéo tay lần nào nữa, cũng may, nhà tôi không bao giờ phải trưng cành đào chưa từng có ấy một lần nữa.
Thế cũng đủ để thấy, những cánh đào hồng phớt rụng rơi trên nền nhà hay cành đào vẫn hồng rực góc sân lúc ra giêng là quý đến mức nào.
Tập tản văn Tết xưa thơ bé của tác giả Hương Thị do Nhà xuất bản Kim Đồng phát hành chào mừng Tết Kỷ Hợi. Sách đưa người đọc vào không gian thị trấn nhỏ ở Bắc Bộ thập niên 1980. Cuốn sách như lời thủ thỉ của một bà mẹ, kể cho con nghe ký ức về Tết của một thời còn thiếu thốn nhưng đầy ắp yêu thương. VnExpress trích đăng tác phẩm.
>>> Xem thêm: Phần đầu "Tết xưa thơ bé", Áo Tết cho con