![]() |
Sau khi giải nghệ trong màu áo Carshalton Athletic, Hodgson khởi nghiệp cầm quân năm 1976 tại CLB hạng nhất Thụy Điển Halmstad, nơi ông gắn bó trong vòng năm năm và hai lần vô địch quốc gia (1976 và 1976). |
![]() |
Thành công của Halmstad năm 1976 được xem là một trong những bất ngờ lớn nhất lịch sử bóng đá Thụy Điển. Mới trước đó một năm, CLB này còn vật lộn để trụ hạng và được xem là một ứng cử viên nặng ký cho suất xuống hạng trong mùa giải Hodgson ra mắt. Chức vô địch mà HLV người Anh đem lại cho Halmstad vì thế được xem là một kỳ tích vô tiền khoáng hậu. |
![]() |
Sau một giai đoạn ngắn cầm Bristol City, Hodgson trở lại Thụy Điển dẫn dắt CLB Orebro và từ 1985, chuyển sang Malmo, nơi ông giúp đội đoạt năm chức vô địch quốc gia liên tiếp. |
![]() |
Với Malmo, chiến công lớn nhất của Roy Hodgson trên đấu trường châu lục khi đó là lần ông và các học trò loại ông lớn Serie A, Inter Milan, khỏi vòng một Cup C1 mùa 1989-1990. Trận lượt đi, Malmo thắng 1-0 trên sân nhà và cầm hòa Inter 1-1 ở Meazza trong trận lượt về. |
![]() |
Sau 15 năm làm việc ở cấp CLB Hodgson tìm kiếm thách thức mới trong vai trò HLV trưởng tuyển Thụy Sĩ từ tháng 1/1992. Ông làm việc này trong ba năm và gặt hái thành công nhất định, tiêu biểu là lần đưa tuyển Thụy Sĩ lên đứng thứ ba trên bảng xếp hạng FIFA và lọt vào tới vòng 16 đội World Cup 1994. |
![]() |
Ngay trước khi Euro 1996 khởi tranh, Hodgson từ chức HLV tuyển Thụy Sĩ để ngồi vào chiếc ghế nóng ở Inter. Ông trụ lại đây hai năm, đưa Inter vào trận chung kết Cup UEFA (tiền thân của Europa League hiện tại) năm 1997 trước khi bị sa thải. |
![]() |
Rời Inter, ông trở lại Anh cầm Blackburn, nhưng rồi tiếp tục bị sa thải vì thành tích nghèo nàn ở mùa 1998-1999. Hodgson sau đó trở lại Inter làm HLV tạm quyền một thời gian ngắn. |
![]() |
Năm 2001, Hodgson rời Copenhagen để trở lại Italy thử sức với Udinesea và tiếp tục thất bại. Ông bị sa thải chỉ sau bốn tháng cầm quân và khiến đội bóng tụt xuống gần sát nhóm cầm đèn đỏ trên bảng xếp hạng Serie A. |
![]() |
Tháng 12/2007, sau khi phiêu bạt qua tuyển UAE, CLB Viking và tuyển Phần Lan, Hodgson lại hồi hương dẫn dắt Fulham. Tại đây, ông khởi đầu nghèo nàn, nhưng giúp đội bóng trụ hạng vào giờ chót nhờ trận thắng Man City, đội khi đó còn nghèo khó. |
![]() |
Mùa 2009-2010, Hodgson đưa Fulham tới trận chung kết Europa League - trận chung kết Cup châu Âu đầu tiên trong lịch sử 130 năm của CLB. Tại đây, đội thua Atletico Madrid 1-2. |
![]() |
Thành công ở Fulham là bước đệm đưa Hodgson tới Liverpool, đội phải trả 2 triệu bảng tiền đền bù để giải phóng hợp đồng, đưa ông về Anfield thay Rafa Benitez. Nhưng hàng loạt kết quả tệ hại khiến hai bên phải nhất trí chia tay vào tháng 1/2011 |
![]() |
Hodgson không thất nghiệp lâu. Ông được West Brom trải thảm đỏ rước về vào tháng 2/2011 và sớm gặt hái thành công khi giúp đội bóng trụ hạng an toàn. West Brom thậm chí còn cán đích ở vị trí thứ 11, vị trí cao nhất trong 30 năm qua. Điều tương tự diễn ra mùa này, khi West Brom đang vững vàng ở vị trí thứ 10 và chắc chắn trụ hạng. |
![]() |
Cuối tháng 4/2012, Hodgson bất ngờ vượt qua đồng nghiệp Harry Redknapp, được FA chọn để đàm phán làm HLV trưởng tuyển Anh. West Brom nhanh chóng tán đồng cuộc "hôn nhân" này khi tuyên bố cho phép Hodgson xúc tiến các thủ tục cần thiết, đồng thời sớm liên hệ mời cựu HLV Newcastle Chris Hughton về thay thế. |
![]() |
Hôm qua, 30/4, Hodgson có buổi làm việc kéo dài bốn tiếng với lãnh đạo FA ở sân Wembley và vui vẻ ra về với bản kế hoạch chuẩn bị cho Euro 2012 trên tay. Vẫn chưa có thông cáo bổ nhiệm chính thức từ FA, nhưng việc Hodgson trở thành HLV tiếp theo của tuyển Anh có lẽ chỉ còn là vấn đề thời gian. |
Phương Minh