Nhu cầu sử dụng rau an toàn đang ngày càng gia tăng, đặc biệt trước những thông tin về thực phẩm "bẩn”, rau xanh nhiễm hóa chất. Tuy nhiên, có một nghịch lý đáng buồn lại đang diễn ra, đó là tại chính các vùng chuyên sản xuất rau an toàn, nhiều khi, đầu ra cho dòng sản phẩm này vẫn là bài toán đầy thử thách.
Theo dự thảo ban hành ngày 13/12/2011 sửa đổi Quyết định số 99/2008/QĐ – BNN của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, rau an toàn là sản phẩm rau được sản xuất, sơ chế phù hợp quy chuẩn kỹ thuật về điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm hoặc phù hợp với các quy định liên quan đến đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm có trong quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt cho rau, quả tươi an toàn (VietGAP).
Từ năm 2000, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ban hành hướng dẫn về sản xuất rau an toàn, song, sau hơn 10 năm nhìn lại, kết quả thực hiện được còn rất hạn chế. Đến năm 2007, cả vùng đồng bằng sông Hồng mới có 13.216 ha quy hoạch trồng rau an toàn, chiếm 13%/tổng diện tích, trong đó, chỉ có 6.755 ha được chứng nhận đủ điều kiện sản xuất rau an toàn. Năm 2008, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có ban hành quy chuẩn VietGAP, nhưng sau hơn 3 năm thực hiện, diện tích sản xuất đạt chứng nhận VietGAP và theo hướng VietGAP cũng mới dừng ở 820 ha. Con số này đang quá ít ỏi so với nhu cầu rau an toàn ngày càng cao của người tiêu dùng (NTD).
Tại hội thảo về "Nhận thức của người tiêu dùng về vấn đề rau an toàn và rau hữu cơ” được tổ chức sáng 25/8 tại Hà Nội, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng (Vinastas) cho biết, theo kết quả một cuộc điều tra trên diện rộng tại 6 tỉnh, thành phía Bắc gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Bắc Giang nhằm tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu, hiểu biết của người tiêu dùng về rau an toàn, cho thấy, gần 90% người tiêu dùng cho rằng, rau là thực phẩm quan trọng nhất trong bữa ăn hàng ngày của mỗi gia đình, đặc biệt, rau an toàn có ảnh hưởng rất tốt tới sức khỏe. Nếu sản phẩm chứng minh được độ an toàn, người tiêu dùng sẵn sàng mua với giá cao hơn 20-30%, thậm chí 50% so với giá thường. Tuy nhiên, trên thực tế, tại nhiều vùng chuyên canh rau an toàn, đầu ra cho dòng sản phẩm này nhiều khi vẫn làm nản lòng các hộ sản xuất.
Đâu là nguyên nhân của thực trạng này? Tiến sĩ Lê Trung Hà, Tổng công ty Rau quả Trung ương cho rằng, sự thiếu tham gia của các doanh nghiệp đã khiến việc tiêu thụ rau an toàn vẫn mang tính chất mua bán nhỏ lẻ, chưa có chiến lược kinh doanh hay xây dựng thương hiệu đủ tầm. Cũng vì thế, dù nhu cầu rau an toàn của người dân ngày một tăng cao song người sản xuất rau an toàn vẫn không bán được hàng.
Cùng với đó, hệ thống phân phối chưa chuyên nghiệp dẫn đến nguồn tiêu thụ không ổn định. Đồng quan điểm, ông Nguyễn Mạnh Hùng cũng cho rằng, nhiều người tiêu dùng vẫn đánh giá rau có hình ảnh tươi xanh, mịn màng là rau an toàn mà không kể đến các yếu tố khác. Tại Hà Nội, 90% người tiêu dùng không thể phân biệt rau an toàn với rau không an toàn bằng mắt thường. Tỷ lệ người tiêu dùng mua rau tại các chợ xanh, chợ cóc gần nơi sinh sống vẫn rất cao (39%), và chỉ có 14% tìm mua tại siêu thị và các cửa hàng có ghi bán rau an toàn. Đa số người tiêu dùng cũng rất phân vân không biết nên tin tưởng vào loại chứng nhận rau an toàn nào.
Một ví dụ tiêu biểu, Công ty Hương Cảnh đã mạnh dạn đầu tư tổ chức sản xuất rau an toàn theo hướng VietGAP tại xã Văn Đức, huyện Gia Lâm. Với nguồn vốn đầu tư gần 7 tỷ đồng, Hương Cảnh đã xây dựng hoàn thiện nhà sơ chế rau an toàn, cam kết thu mua 100% sản phẩm rau an toàn của nông dân theo giá thoả thuận.
Tuy nhiên, với hình thức bán "ký gửi” không ổn định tại một số siêu thị, vào những thời điểm rau thu hoạch nhiều, rau an toàn khó cạnh tranh được với rau thường về giá thành nên doanh nghiệp khó thu được lợi nhuận ổn định. Ngoài ra, lượng hàng tiêu thụ tại siêu thị, trung tâm thương mại chưa nhiều do nhiều bà nội trợ không vào siêu thị hàng ngày.
Ông Trần Văn Mây, Chủ nhiệm Hợp tác xã xóm Đầm, xã Vân Nội, một địa chỉ nổi tiếng với thương hiệu rau an toàn cũng cho biết, trước đây, hợp tác xã đưa rau cho khoảng 100 trường học trên địa bàn Hà Nội thì nay chỉ còn khoảng 50 trường. Như vậy, phạm vi tiêu thụ rau của hợp tác xã đã giảm khoảng 50%, nhiều khi phải tiêu thụ qua chợ đen, rất dễ khiến người trồng rau chán nản.
Tại siêu thị Big C, bà Phạm Thanh Nga, Phó giám đốc siêu thị cho biết, người tiêu dùng hiện nay đã nhận thức được sử dụng rau an toàn là tốt nhưng lượng tiêu thụ rau an toàn vẫn thấp do giá thành cao, thiếu thông tin sản phẩm... nên ngày càng ít các nhà sản xuất đi theo rau an toàn. Còn theo đại diện siêu thị Citimax, 100% rau được bán trong siêu thị là rau an toàn, được lấy từ vùng rau Đà Lạt, Hóc Môn. Tuy nhiên, đúng là tình hình tiêu thụ rau trong siêu thị vẫn gặp khó, do không phải người tiêu dùng nào cũng ý thức được phải tiêu thụ sản phẩm sạch, mà vẫn chủ yếu tìm đến chợ cóc, các hàng bán dạo, vừa tiện lợi và giá cả phải chăng.
Như vậy, câu trả lời cho bài toán đầu ra cho rau an toàn một phần lớn nằm ở chính nhận thức của người tiêu dùng. Theo ông Hùng, độ "vênh” giữa người tiêu dùng và người sản xuất nằm ở khâu thông tin.
Còn theo anh Nguyễn Trần Khánh, chuyên viên chi cục bảo vệ thực vật tỉnh Phú Thọ, một trong những giải pháp khả thi với người sản xuất rau an toàn và người tiêu dùng hiện nay chính là thực hiện xây dựng hệ thống đảm bảo cùng tham gia (PGS). Xã Tân Đức (Việt Trì, Phú Thọ) là xã đã được tài trợ thí điểm thực hiện chứng nhận PGS và đạt nhiều thành công. Trong khi hình thức chứng nhận rau an toàn cũ theo bên thứ 3 thường mất phí rất cao, 15 triệu/cây trồng/từng chỉ tiêu, và chỉ có giá trị trong 1 năm, không phù hợp các hộ nhỏ lẻ, manh mún, thì PGS tạo điều kiện cho người tiêu dùng cùng tham gia vào quá trình kiểm tra, giám sát, đảm bảo chất lượng sản phẩm, từ đây nâng cao niềm tin của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, việc triển khai hệ thống này còn đối diện nhiều thách thức như chưa được Nhà nước công nhận chứng chỉ mà mới áp dụng ở địa phương, thường chỉ áp dụng cho rau hữu cơ nên gặp nhiều khó khăn khi chuyển đổi sang rau an toàn. Và quan trọng nhất, trong cuộc khảo sát của Vinastas tiến hành, mới có 5% người tiêu dùng nhận biết được về PGS. Bởi thế, trong thời gian tới, anh Khánh kiến nghị, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xây dựng chính sách hỗ trợ ban đầu cho quá trình sản xuất như hỗ trợ đầu vào với giá thấp hơn. Các siêu thị, cửa hàng muốn mua rau an toàn có thể hỗ trợ người dân về bao bì, dây buộc, túi đựng... thể hiện sự tham gia vào hệ thống. Đồng thời, rà soát, điều chỉnh lại các tiêu chí PGS để người tiêu dùng dễ dàng chung tay tham gia với người sản xuất rau, tạo nên những sản phẩm chất lượng.
(Đại đoàn kết)