Theo điều 11 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của luật này. Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của luật này đều không có giá trị pháp lý.
Cụ thể, nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn. Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên.
Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình quy định việc áp dụng khoản 1 Điều 11 của Luật Hôn nhân và gia đình, các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ sau ngày 1/1/2001 mà không đăng ký kết hôn “đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản, toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Như vậy, theo quy định của pháp luật, quan hệ của hai bạn không được thừa nhận là vợ chồng. Nếu muốn chấm dứt quan hệ “nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn”, một trong hai bên có thể yêu cầu toà án giải quyết.
Tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng, đồng thời giải quyết phần con chung và tài sản chung theo quy định tại khoản 2 và 3 của Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình.
Hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật được quy định: Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn, tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thoả thuận của các bên; nếu không thoả thuận được yêu cầu Toà án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.
Việc chăm sóc, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn được quy định tại điều 92 Luật Hôn nhân và gia đình như sau: sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thoả thuận được toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên phải xem xét nguyện vọng của con. Về nguyên tắc, con dưới 3 tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác.
Để được nuôi con, bạn có thể thỏa thuận với chồng về việc mình nuôi con sau ly hôn. Nếu không được, yêu cầu tòa án xem xét trên cơ sở pháp luật để phân định quyền nuôi con.
Luật sư Phạm Thị Huyền
Công ty luật Thiên Thanh, Hà Nội