Krishna Kripalani -
(Tiếp theo phần 1)
Họ quy định quan điểm trí tuệ, gây ra những xáo trộn trong nhận thức của con người và thoát khỏi sự ràng buộc của quan điểm đạo đức vốn đã có ảnh hưởng sâu rộng, bền chặt.
Ảnh hưởng của Gandhi chủ yếu là nhờ vào sự nổi tiếng và những sự kiện đặc biệt của ông tại Ấn Độ, và dừng lại ở phạm vi trong nước. Ảnh hưởng của hai tác giả còn lại mang tính trí tuệ và trừu tượng hơn, do đó, phổ quát hơn. Các nhà văn Ấn Độ chịu ảnh hưởng của Frued và Marx chủ yếu là gián tiếp thông qua tác phẩm của các tác giả bên ngoài Ấn Độ.
Gandhi có ảnh hưởng sâu rộng và trực tiếp đối với các nhà văn Ấn Độ. Từ góc độ chính trị, hệ thống tư tưởng của ông là đạo đức và trí tuệ, là sự cầm tù và sự giải phóng. Trong khi nó mài sắc lòng trung thành của các tác giả bằng cách đặt họ trong khuôn khổ, trong khi nó khuyến khích chủ nghĩa đạo đức và tạo ra sự xa lánh đối với vấn đề giới tính thì nó là sự cấm đoán, là hậu quả, là sự ốm yếu của lòng sùng đạo mù quáng. Nhưng nhìn chung, nó là quyền lực giải phóng và mở rộng không chỉ phạm vi đồng cảm của các nhà văn mà còn mở rộng và nâng cao tính chất mãnh liệt của sự đồng cảm đó. Gandhi rũ bỏ cuộc sống thành thị với những kỳ vọng của nó và nhấn mạnh rằng, tôn giáo mà không có lòng thương, văn hóa mà không có lương tâm là những thứ vô dụng. Ông làm thay đổi hình ảnh về đất nước Ấn Độ và chuyển chủ nghĩa duy tâm của dân tộc từ chỗ là sự bợ đỡ phù phiếm cho quá khứ đến chỗ đối mặt với các vấn đề hiện thực của Ấn Độ như cái nghèo, nạn thiếu ăn, dựa dẫm nhưng có tiềm năng vô hạn chưa được khai thác.
Cả Vivekananda và Tagore đã nói như vậy sớm hơn, nhưng Gandhi mới thực sự là người tạo ra hình ảnh về một thực tại Ấn Độ sống động và sâu sắc, mới thực sự là người thành công trong việc phổ biến truyền bá một lý tưởng sống mới vào giới trí thức Ấn Độ, mở rộng sự đồng cảm giữa họ và mở rộng thêm chiều kích của lòng khát khao hướng ngoại. Các nhà văn Ấn Độ học xem xét đất nước của họ, không phải là trong những mảnh vỡ lộng lẫy của những lâu đài cổ, không phải trong những ngôi đền của Varanasi và Madurai, không phải trong những tòa nhà trang nghiêm nhìn ra núi Malabar và con đường Chowringhee, mà là trong những khu nhà ổ chuột chui rúc ở Bombay và Calcutta và trong vô số những ngôi làng Ấn Độ đang trong vũng lầy của đói nghèo và sự dơ dáy bẩn thỉu, những quả đồi đầy phân thú vật hôi hám khủng khiếp theo cách gọi của Gandhi. Theo cách đó, ông cung cấp tác nhân kích thích mạnh mẽ lý cho khuynh hướng văn học, điều đã bắt đầu từ chủ nghĩa lãng mạn đến chủ nghĩa hiện thực, từ sự tự nịnh hót, bợ đỡ mình đến chỗ tự phân tích mổ xẻ chính mình.
Gandhi cũng thúc đẩy bước quá độ từ văn chương giả tạo khoa trương đến sự thịnh hành của hình thái văn chương chú trọng vào sự chân thật trong lời nói (spoken form). Lối viết giản dị, trực tiếp, cô đọng và thâm thúy chua cay, cắt bỏ những thứ thừa thãi không cần thiết cả ở tiếng mẹ đẻ Gujara và tiếng Anh của ông, là sự hiệu chỉnh có hiệu quả đối với khuynh hướng tự nhiên, phản ứng lại kiểu khoa trương loè loẹt trong các nhà văn Ấn Độ.
Ảnh hưởng này đặc biệt có hiệu quả trong ngôn ngữ Gujara, thứ ngôn ngữ mà Gandhi đã sử dụng thuần thạo và đạt đến mức ưu tú. Tiếng Bengal với đặc tính sinh động của lối thông tục trở thành văn chương trong các sáng tác của Tagore và người bạn trẻ của ông, Pramatha Chaudhury, bút danh Birbal, người đã giới thiệu vào Bengali niềm đam mê tinh tế và độ chính xác mà ông hấp thụ được từ tình yêu đối với văn học và ngôn ngữ Pháp.
Nhà tiểu thuyết kiệt xuất viết bằng tiếng Hindi, Premchand, đã miêu tả trong các bài tiểu luận có tính tự truyện rằng, ông đã, dưới ảnh hưởng của Mahatma, từ bỏ phục vụ cho chính phủ, đến sống tại một ngôi làng để tìm hiểu quy luật cuộc sống và viết về nó. Địa vị của ông trong lịch sử văn học Ấn Độ, lý do để người ta đánh giá ông là nhà tiểu thuyết lỗi lạc viết bằng tiếng Hindu (cũng như tiếng Urdu) chủ yếu là vì sự thấu hiểu của ông đối với đời sống làng quê, sự đồng cảm quảng đại với những bất hạnh của họ, cuộc sống còi cọc nheo nhóc và sự mô tả giản dị và minh bạch của ông về đời sống. Tất cả nội dung miêu tả đó có những ảnh hưởng vĩ đại với đương thời và phản ánh ảnh hưởng của Gandhi đối với văn học hiện đại Ấn Độ. Giữa các cây bút hưởng ứng ảnh hưởng này, mỗi người theo những cách khác nhau, có thể đề cập đến anh em nhà Gupta thiên tài, Maithilisharan và Siyaramsharan, cũng như Jainendrakumar trong ngôn ngữ Hindu, Kaka Kalelkar, Darshak và Umashankar Joshi trong tiếng Gujarati, Sane Guruji, Khandekar và Mama Warerkar trong tiếng Marathi, Nilmani Phookan trong tiếng Assam, Kalindicharan Panigrahi trong tiếng Oriya, Annadashankar Ray trong tiếng Bengali, Bharati trong tiếng Tamil, Vallathol trong tiếng Malayalam và nhiều tác giả khác ở những ngôn ngữ khác.
Nghe có vẻ ngược đời, song chính động lực tư tưởng của những người theo chủ trương Gandhi lại góp phần mở đường cho sự chảy vào của chủ nghĩa Marx. Có thể, không có nghịch lý nào ở đây cả. Lực hút cơ bản của cả chủ nghĩa Marx và Gandhi chính là chủ nghĩa lý tưởng của họ, tuy nhiên, cơ cấu hệ tư tưởng và hệ thống thuật ngữ chuyên dùng được sử dụng giữa họ là có sự khác biệt. Cuộc vận động suốt đời của Gandhi chống lại sự bóc lột thực dân của dân tộc khỏe hơn với các dân tộc yếu hơn, tiếng nói lên án mãnh liệt bất kỳ hình thức nào của sự bóc lột kinh tế, lời khẳng định cương quyết rằng tất cả những gì không được phân phối cho quyền sở hữu đều bị coi là ăn cướp và lời tuyên bố thiết tha của ông rằng, ông hổ thẹn khi nói về Chúa đối với một người mà dạ dày của họ đang gào khóc đòi bánh mì - những thứ này còn hơn lòng nhiệt thành đối với Kinh cầu nguyện và ngày ăn chay nhịn đói, của đời sống xoay tròn hay lối sống độc thân, của tư tưởng bất bạo động, ngôn từ và hành động đã gây ấn tượng mạnh đối với giới trí thức Ấn Độ. Với những người chịu ảnh hưởng của tư tưởng Gandhi đồng thời lại có lòng trung thành tương tự đối với chủ nghĩa Marx, thì sự khác nhau cơ bản gây ấn tượng với giới trí thức Ấn Độ về hai hệ thống học thuyết này là, các lý thuyết của chủ nghĩa Marx kêu gọi có phương pháp, triệt để, nhất quán cho ý thức hệ của nó và mang tính thực tế hơn trong việc làm sáng tỏ quy luật lịch sử. Điều này giải thích hiện tượng trong những năm 30 của thế kỷ, nhiều nhà văn và trí thức, những người được Gandhi truyền cảm hứng đã xoay sang chủ nghĩa xã hội của ý thức hệ Mác xít. Premchand, người đã bắt đầu như một người hâm mộ nồng nhiệt đứng đầu phiên họp đầu tiên của Hội liên hiệp các nhà văn tiến bộ được sự đỡ đầu của cộng sản năm 1936 đi đến càng ngày càng tin vào những chủ trương của chủ nghĩa Marx.
Sự nở rộ của chủ nghĩa Marx trong bối cảnh văn học Ấn Độ những năm 30 là một hiện tượng mà Ấn Độ có thể chia sẻ với nhiều quốc gia khác. Đúng là các cuộc biểu tình thị uy theo chủ trương của Gandhi đã vang dội khắp Ấn Độ, tuy nhiên, nó không nguy hiểm mà cũng không độc hại. Hình ảnh phổ biến được định hướng chủ yếu là để tìm kiếm Đức Chúa, không phải trong những ngôi đền, nhà thơ Hồi giáo, nhà thờ mà là trong daridra - narayana, sự siêu phàm trong trí tưởng tượng của những người nô lệ đang đang đói khát. Điều này đã đem đến cho nhóm cánh tả tự với niềm ham muốn với đạo đức hầu như tự cho mình là đúng. Nói một cách khác, dưới ảnh hưởng của tư tưởng Gandhi, lòng căm thù mềm yếu đi và trở nên tương đối vô thưởng vô phạt. Loại kịch múa thu hút công chúng tôn giáo của miền Nam Ấn (loại hình vallathol) không có chút mâu thuẫn nào trong lời cầu khẩn viện dẫn cả Lenin và thánh Mary Magdalene cùng với lòng sùng bái nồng nhiệt như nhau. Premchan, người được gọi là Gorky của Ấn Độ, khi kết thúc cuốn tự truyện có vai trò như một chúc thư của mình đã quả quyết một cách tôn kính riêng biệt rằng không có thanh kiếm nào làm xao động ngọn cỏ mà là do Chúa quyết định như thế. Và, cũng vậy, nhiều nhà tiểu thuyết trung thành với chủ nghĩa Marx đã không xấu hổ biểu lộ sự đồng tình của họ đố với lời kêu gọi loại bỏ tất cả những dấu vết của tính uỷ mị hoàn toàn tư sản.
Ảnh hưởng của chủ nghĩa Freud với những luận giải về hành vi của con người tinh vi hơn mặc dù ít lấn át hơn so với ảnh hưởng của những đại biểu thuộc chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong tầm nhìn được rộng mở khoáng đạt hơn, lời kêu gọi của tư tưởng Freud phổ biến hơn và những phân tích của nó độc lập với hệ tư tưởng của một giai cấp hay là vấn đề quan hệ giai cấp. Mặc cho tư tưởng Gandhi coi giới tính là một hành vi tội lỗi trừ khi nó phục vụ cho sự sinh đẻ hợp quy luật, các tác giả Ấn Độ, đặc biệt là các nhà thơ và nhà tiểu thuyết vẫn bị lôi kéo bởi học thuyết phân tâm của Freud. Quan điểm truyền thống cổ xưa của người Ấn Độ về vấn đề dục tính hết sức lành mạnh, không có sự ràng buộc của luân lý và hoàn toàn tự nhiên. Trong Rig Veda rải rác những câu thơ có thể khiến người ta đỏ bừng mặt với niềm đam mê nguyên thủy, bản năng của con người 1. Nếu tác phẩm Kama-Sutra (được viết vào thế kỷ thứ hai trước công nguyên, là một trong những cuốn sách giảng giải về vấn đề tình dục nổi tiếng nhất của Ấn Độ cổ đại) ngày nay khêu gợi trong độc giả là người Ấn Độ hay người ngoại quốc những thú vui thiếu lành mạnh giống như sách khiêu dâm, thì nó lại phản ánh tình trạng bệnh tật, ốm yếu của tri thức đương thời và lại không phản ánh bất cứ sự đồi trụy hay sa đọa đạo đức trong cách nhìn của tác giả hay của thời đại mà ở đó các tác phẩm được ghi chép một cách nghiêm túc như là hành vi nghiên cứu giáo lý hay kinh sách.
Thơ ca sùng đạo thời trung đại của Jayadeva, Vidyapati, Surdas và các tác giả khác có thể đã say sưa với những khoái cảm xác thịt và thường xuyên bộc lộ những biểu tượng khêu gợi dục tình một cách lộ liễu - điều mà nền học vấn chính thống sẵn sàng khích bác, lên án. Sự biểu đạt đầy tính dục rõ ràng không mâu thuẫn với trạng thái thăng hoa về tinh thần và lòng mộ đạo một cách sùng kính. Nhưng ảnh hưởng của tình trạng khiên cưỡng, cứng nhắc về đạo đức, pháp luật của triều đại Victoria và của tổ chức đối kháng với nó trong chủ nghĩa cải cách Brahmo (giáo phái Hindu được thành lập vào năm 1828 do Ram Mohan Roy, một người Brahman đứng đầu. Các thành viên của giáo phái này trung thành với Kinh Veda, chủ trương tin vào tình yêu của một Chúa, từ bỏ tượng thánh và vật hiến tế), được củng cố bởi chiến dịch Thanh giáo của Gandhi, đã phủ lên ý thức Ấn Độ về sự kìm chế dục tính sâu đậm đến mức nó cần thanh thế của những lý luận mang tính khoa học để giải tỏa. Tình trạng giải thoát vụng về và gượng ép này được minh chứng rõ nhất trong trường hợp Premchand và một lượng lớn các tác giả hôm nay, những người cấp tiến về chính trị và nhìn Freud như là kẻ phá hoại đạo đức 2.
Những ảnh hưởng không thuộc lĩnh vực văn chương của hai nhà tư tưởng ngoại quốc này, gồm tư tưởng biện chứng của Marx và học thuyết phân tâm của Freud, có thể được thêm vào chất văn chương đích thực nào đó cũng được mang đến từ phương Tây. Điều này liên quan đến những cuộc thử nghiệm mới về hình thức văn học được tiến hành bởi những cái tên rất kêu đã từng đạt được uy tín và thanh thế ngày càng tăng ở phương Tây nhu Marcel Proust, James Joyce, Ezra Pound, T. S. Eliot, Jean Paul Sartre, Camus, và nhiều người khác. Với những đổi mới và sự phá cách chủ yếu trong hình thức và phương pháp tiếp cận, họ không lệ thuộc vào bất cứ hệ tư tưởng chính trị nào. Một tác giả có thể rất táo bạo và độc đáo trong sự diễn đạt nhưng dè dặt trong tôn giáo và lòng trung thành chính trị hoặc là ngược lại. T.S. Eliot là một minh chứng kỳ lạ cho sự hòa trộn giữa cái độc đáo và chủ nghĩa tuân thủ. Trong số các tác giả Ấn Độ, Bishnu Dey và Buddhadev Bose viết bằng ngôn ngữ Bengali, Ajneya và Muktibodh bằng tiếng Hindi, Mardhekar và Vinda Karandikar bằng tiếng Marathi và các tác giả khác cùng với ngôn ngữ bản địa của mình đã nhiệt tình tham gia vào chiến dịch đả phá những tín ngưỡng sai lầm vốn đã cắm rễ sâu bền trong đời sống tinh thần của dân tộc nhưng lại trung thành với cái chính thống, quyền lợi chính trị và bất cứ thứ gì khác tương tứng với địa vị của họ.
Những ảnh hưởng này, cũng giống như hầu hết những điều diễn ra trong cuộc sống, không diễn ra đơn lẻ và cô lập mà trong một hệ thống có nhiều mâu thuẫn, hòa trộn. Một nhà thơ có thể rất hiện đại, rất táo bạo và hoàn toàn chìm đắm trong bất kỳ tình trạng ám ảnh tình dục nào, như Jibanananda Das 3, khêu gợi ham muốn nhục dục của con người, trần tục với phần lớn các khoái cảm hoang dại trong xúc giác và khứu giác, nhưng lại hết sức tráng kiện thanh thoát trong bất cứ sự thèm khát tình dục nào; hoặc Amiya Chakravarty, chân đứng trên cả địa cầu (globe-trotter) và tự nguyện rời khỏi quê hương, một người cũng ưa thích cái mới như bao tác giả Ấn Độ thời đó, nhưng cũng không phạm sai lầm khi lớn tiếng hoàn toàn bảo vệ cái mới. Hay nhu tác giả viết bằng tiếng Hindu tài ba, Jainendrakumar, một nhà văn chịu ảnh hưởng Gandhi sâu sắc và thề theo chủ chương bất bạo động nhung trong nhưng trong các tác phẩm của mình lại không thể hiện sự chống phá vấn đề giới tính.
Sức tác động của những luồng tư tưởng khác nhau nhưng lại có điều kiện tương tác, giao thoa lẫn nhau này đã có những tác dụng tích cực là khuấy động đời sống văn học, văn hóa, xã hội cổ truyền Ấn Độ, mặc dù đây đó cũng có những ảnh hưởng tiêu cực.
Những ảnh hưởng này đặc biệt cần thiết để vứt bỏ sự tự mãn thiển cận đối với cái chính thống, vứt bỏ lòng mộ đạo ủy mị và sự bợ đỡ của quá khứ vốn là một lực cản bước đi của lịch sử Ấn Độ
Phạm Phương Chi dịch từ tiếng Anh
Nguồn: Trích dịch cuốn Literature of Modern India a Panoramic Glimpse (Một cái nhìn tổng quan về văn học Ấn Độ hiện đại) của Krishna Kripalani - NXB National Book Trust, India, 1982.
--------------------------------
Chú thích:
1 Trong cuộc đối thoại giữa Yama và Yami, cặp song sinh của thời ban sơ, người chị đã tán tỉnh nồng nhiệt người em rằng:
Em, Yami, tôi như phát rồ với thần ái tình đang ngự trị trong ta Yama.
Em có thể nghỉ trên cùng chiếc giường bên cạnh chàng.
Em như một người vợ được mang đến cho người chồng
Khi bánh xe đặt chúng ta cùng gắng sức cho một nhiệm vụ.
Xem De, S. K., Ancient Indian Erotics and Erotic Literature, Firma K. L. Mukhopadhyaya, Calcutta, 1959.
2 "Chỉ có lợi ích là khởi nguồn từ giáo dục" - Premchand nói một cách mai mỉa trong một truyện ngắn "rằng mọi người coi thỏa mãn nhục dục là cái đích của cuộc sống. Bất cứ sự hà khắc nào là hành vi đầu độc tâm hồn. Freud là vị thánh của họ và là người hướng đạo cho cuộc sống của họ" (Trích trong Premchand: His Life and Work của tác giả Hans Raj, Rahbar). Tác giả cũng trích dẫn bài nói chuyện của Premchand với Jainendrakumar, nhà tiểu thuyết hàng đầu viết bằng tiếng Hindu, rằng, văn học Bengal bị ám ảnh bởi vấn đề dục tính. Nhà tiểu thuyết viết bằng tiếng Bengal này còn nói thêm: "Nó là con người hay nghi ngờ và ủy mị. Sự ủy mị và nỗi nghi ngờ này đã đầy đến mức mà tôi không bao giờ đạt được. Chủ nghĩa hiện thực và tư duy logic của tôi có giới hạn; nhưng tôi không tin vào sự làm chủ bản thân và lòng quyết tâm dù có vững chắc đến đâu của con người trước dục tính. Thực tình, Rabindranath và Sarat Chandra đều rất vĩ đại, nhưng tôi nghi ngờ, có hẳn là các nhà văn Hindu cứ nhất thiết phải đi theo họ không. Điều này không hẳn, ít nhất, là với tôi".
3 Xem The Beloit Poetry Journal (gồm 9 bài thơ của Jibanananda được dịch ra tiếng Anh), NXB Fall, 1965.