1. Định giá cổ phiếu phổ thông theo phương pháp chiết khấu luồng thu nhập (DCF):
Phương pháp này dựa trên một nguyên lý cơ bản là "một đồng tiền của ngày hôm nay luôn có giá trị hơn một đồng tiền của ngày mai, do đó, giá trị của doanh nghiệp được xác định bằng các luồng thu nhập dự kiến mà doanh nghiệp đó thu được trong tương lai được quy về giá trị hiện tại bằng cách chiết khấu chúng bằng một mức lãi suất phù hợp”.
Trong phương pháp DCF có 3 thông số cơ bản nhất cần được xác định, đó là luồng thu nhập công ty sẽ thu về trong tương lai, mức lãi suất chiết khấu luồng thu nhập đó và thời hạn tồn tại dự tính của doanh nghiệp. Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở những nước mà TTCK phát triển, nơi thường có đầy đủ thông tin về lịch sử cũng như thông tin hiện tại và dự báo hợp lý về tình hình tài chính và rủi ro của doanh nghiệp. Hiện nay, việc áp dụng công thức này ở Việt Nam cũng được nhiều người chấp nhận bởi giá cổ phiếu phản ánh được tương đối đầy đủ mọi mặt bản chất hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Tuy nhiên, tại Việt Nam việc áp dụng công thức này có một số khó khăn làm cho việc ước tính nguồn thu trong tương lai của các công ty khó có thể chính xác như: tình hình môi trường kinh doanh có nhiều biến động, công tác dự báo chưa chính xác… Do đó, công thức này được tính gộp theo hướng 5 năm:
P = Po + E1/(1+r) + E2/(1+r)2 + E3/(1+r)3 + E4/(1+r)4 + E5/(1+r)5
P: giá trị thực của cổ phiếu
Po: giá trị cổ phiếu hiện tại
Ei: nguồn thu trong năm i của công ty
r: lãi suất thị trường
2. Định giá CP phổ thông theo phương pháp hệ số P/E:
Hệ số P/E là hệ số giữa giá cổ phiếu và thu nhập hàng năm của một cổ phiếu đem lại cho người nắm giữ. Thông thường, người ta thường dùng thu nhập trên mỗi cổ phiếu của công ty nhân với hệ số P/E trung bình ngành hoặc của một công ty tương tự về qui mô, ngành nghề và đã được giao dịch trên thị trường. Việc áp dụng hệ số P/E để tính giá cổ phiếu tại Việt nam còn gặp phải nhiều khó khăn do thiếu số liệu và TTCK chưa phát triển.
Tại các thị trường đã phát triển, theo số liệu thống kê về chỉ số P/E, hệ số này từ 8-15 là bình thường, nếu hệ số này lớn hơn 20 thì công ty đang được đánh giá rất tốt và người đầu tư trông đợi trong tương lai, mức thu nhập trên một cổ phiếu của công ty sẽ tăng nhanh. Trường hợp công ty có hệ số P/E thấp có thể là do thị trường không đánh giá cao công ty đó hoặc chưa hiểu biết nhiều về công ty.
3. Định giá cổ phiếu dựa trên cơ sở tài sản ròng có điều chỉnh:
Quan điểm chung của phương pháp này cho rằng, một công ty có giá trị không kém hơn tổng các giá trị của từng loại tài sản riêng trừ đi các khoản nợ. Tài sản riêng ở đây được hiểu bao gồm cả những giá trị lợi thế của công ty. Giá CP của công ty có thể được tính theo phương pháp tổng quát sau:
P = (Giá trị tài sản ròng + giá trị lợi thế)/Tổng số cổ phiếu định phát hành
Phương pháp này thường được sử dụng để tính toán giá tham chiếu và so sánh. Ở Việt Nam, áp dụng phổ biến cho các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện cổ phần hoá. Tuy nhiên, giá trị tài sản ròng của công ty dù được định giá chính xác đến đâu cũng chỉ thể hiện giá trị thanh lý của công ty, trong khi đó đối với người đầu tư mua cổ phiếu thì tương lai của công ty mới là điều đáng quan tâm hơn cả.
Trong các doanh nghiệp cổ phần hoá ở Việt Nam, có nhiều loại tài sản không xác định được giá do không có thị trường, nhưng giá trị quyền sử dụng đất đang làm nhiều doanh nghiệp bị định giá thấp đi rất nhiều so với thực tế.
Chú ý:
Khi sử dụng các phương pháp trên, cần tính đến một số yếu tố khác như:
- Độ tin cậy của số liệu
- Mức độ rủi ro trong hoạt động của công ty bao gồm cả những yếu tố như tình hình thị trường và triển vọng của công ty (điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến thời hạn hoạt động của công ty, hệ số chiết khấu trong công thức tính DCF)
- Những yếu tố liên quan đến tài sản vô hình của công ty như trình độ quản lý của ban giám đốc, uy tín sản phẩm, nhãn hiệu thương mại, chất lượng sản phẩm được thể hiện theo các tiêu chuẩn ISO...
(Theo Đầu Tư Chứng Khoán)