Đây là một trong những chính sách khuyến sinh đáng chú ý tại dự thảo Luật Dân số, được Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan trình Quốc hội sáng 23/10. Nội dung này được đưa ra trong bối cảnh tỷ suất sinh của Việt Nam đang giảm thấp nhất lịch sử, chỉ còn 1,91 con trên một phụ nữ, trong khi mức thay thế là 2,1. Để giải quyết thực trạng này, dự thảo luật tập trung vào các giải pháp khuyến khích các cặp vợ chồng sinh đủ hai con.
Theo quy định của Bộ luật Lao động, lao động nữ được nghỉ thai sản 6 tháng. Trường hợp sinh đôi trở lên, người mẹ được nghỉ thêm một tháng cho mỗi con tính từ bé thứ hai. Đề xuất tăng thời gian nghỉ lên 7 tháng khi sinh con thứ hai được kỳ vọng giúp phụ nữ có thêm điều kiện phục hồi sức khỏe và chăm sóc trẻ sơ sinh tốt hơn.
Đại diện Cục Dân số cho biết con số 7 tháng được đưa ra sau khi đã phân tích, tham khảo kinh nghiệm quốc tế và cân nhắc đến nguồn lực của Việt Nam. Mức nghỉ này được xem là trung bình so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quá trình xây dựng đề xuất cũng đã tính toán kỹ lưỡng các tác động đến quỹ bảo hiểm xã hội, kinh tế và tham vấn ý kiến từ phía doanh nghiệp lẫn người lao động.

Cặp vợ chồng đón con trai chào đời ngày 1/1/2023 tại Bệnh viện Từ Dũ, TP HCM. Ảnh:Mỹ Ý
Bác sĩ Mai Xuân Phương, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Truyền thông - Giáo dục (Tổng cục Dân số), nhận định phụ nữ hiện đại vẫn đối mặt nhiều áp lực với thiên chức làm mẹ. Gánh nặng từ công việc ngoài xã hội đến việc nhà, cùng với các vấn đề tâm lý, sức khỏe sau sinh như trầm cảm, khiến nhiều người căng thẳng. Do đó, các chính sách khuyến sinh, đặc biệt là tăng thời gian nghỉ thai sản, là sự hỗ trợ thiết thực để họ vừa chăm sóc con nhỏ, vừa có thời gian nghỉ ngơi.
Ngoài đề xuất trên, dự thảo còn đưa ra các chính sách khác như ưu tiên cho gia đình sinh đủ hai con được tiếp cận nhà ở xã hội và hỗ trợ tài chính. Ông Phương cho rằng những quy định này có thể tạo động lực thực tế, nhưng hiệu quả lâu dài phụ thuộc vào gói chính sách toàn diện, bao gồm cả nhà ở, dịch vụ chăm sóc trẻ, việc làm ổn định và giáo dục.
Tuy nhiên, ông Phương cũng bày tỏ lo ngại về "điểm nghẽn thể chế và nguồn lực" khi triển khai luật. Nguy cơ lớn nhất là các quy định mới có thể "đi trước các luật hiện hành nhưng lại thiếu cơ chế đi kèm". Chẳng hạn, chính sách ưu đãi nhà ở hay tăng thời gian nghỉ thai sản liên quan trực tiếp đến Luật Nhà ở, Luật Bảo hiểm xã hội và Bộ luật Lao động. Nếu các luật này không được sửa đổi đồng bộ, chính sách dù được thông qua vẫn có thể "bị treo", tức là chỉ tồn tại trên giấy mà không thể đi vào đời sống do thiếu căn cứ pháp lý và ngân sách thực hiện.
Để giải quyết vấn đề này, ông Phương đề xuất các giải pháp đồng bộ. Trước hết, cần thiết kế cơ chế thực thi ngay trong Luật Dân số, quy định rõ trách nhiệm phối hợp liên ngành. Tiếp đó, phải rà soát, điều chỉnh đồng thời các luật liên quan để tránh tình trạng "mỗi bộ, ngành đứng riêng". Cùng với đó, cần bố trí nguồn lực thực tế thông qua một chương trình mục tiêu quốc gia về dân số và phát triển.
Ông Phương cũng gợi ý phương án "thí điểm trước, nhân rộng sau". Cụ thể, nên chọn một số địa phương có mức sinh thấp như TP HCM, Đà Nẵng, Huế để áp dụng các chính sách hỗ trợ tài chính, nhà ở trong 2-3 năm. Sau khi đánh giá hiệu quả, mới nhân rộng trên cả nước để tránh lãng phí.
"Luật Dân số chỉ thật sự đi vào cuộc sống khi nó 'nói cùng tiếng nói' với các luật khác và có nguồn lực bảo đảm. Nếu chỉ đưa ra những cam kết trên giấy, chính sách khuyến sinh sẽ mãi là ý tưởng tốt nhưng không chạm được tới người dân", ông Phương bày tỏ.
Lê Nga