Công việc của Chris cũng liên quan đến những gì anh trăn trở. Hiện anh là giám đốc Tập đoàn Future Interface tại Viện nghiên cứu Tương tác Con người và Máy tính thuộc Đại học Carnegie Mellon (Mỹ). Nơi Chris làm việc được gọi là Figlab, được đặt tại một toà nhà cổ chạy bằng năng lượng mặt trời, nằm tại phía tây của cơ sở Pittsburgh của đại học. Tại đây, khắp các phòng đều được trang bị đủ loại đồ kỹ thuật, từ cảm biến CNC đến máy phay CNC hay máy cắt laser.
"Tôi về bản chất là một mọt sách. Tôi thích suy nghĩ về tương lai và những điều có thể xảy ra. Đó cũng chính là công việc nghiên cứu của chúng tôi. Tôi nghĩ, về một khía cạnh nào đó, chúng tôi đang làm việc trong lĩnh vực khoa học viễn tưởng. Những thứ chúng tôi đang nghĩ ra chưa từng tồn tại. Nhưng một khi đã có ý tưởng, tất cả đều đặt ra một câu hỏi chung: Liệu chúng ta có thể kết hợp những gì của tương lai với các công nghệ hiện hữu hay không?", Chris nói.
Thực tế, những gì Figlab sáng tạo đều đứng giữa lằn ranh của cảm hứng và điên rồ. Đó có thể là một loại sơn tĩnh điện cho phép biến những bức tường vô tri thành tấm nền cảm ứng khổng lồ với giá chỉ khoảng 1 USD cho mỗi 0,09 mét vuông, một chiếc đồng hồ thông minh tích hợp máy chiếu laser cho phép giao diện cảm ứng được mở rộng lên toàn bộ cánh tay, hay một thiết bị mô phỏng thực tế ảo có thể biến con người thành những con rối biết đi. Tất cả phát minh như vậy đều được hiện thực hoá tại đây và mới chỉ được công khai một phần rất nhỏ.
Con đường tới giao diện người dùng hoàn hảo
Nhìn theo cách tiêu cực, giao diện người dùng trên máy tính giờ dễ bị coi chỉ là một chiêu câu khách bán hàng. Nhưng không phải sản phẩm nào cũng như vậy, Một giao diện người dùng tốt, về cơ bản, có thể thay đổi cách con người sử dụng công nghệ. Ví như giao diện người dùng đồ hoạ (Graphical User Interface - GUI) giúp cho hệ thống dữ liệu trở nên trực quan và cụ thể hơn. Hay như công nghệ cảm ứng đa điểm với các tính năng liên quan khiến mọi việc giao tiếp giữa con người và các thiết bị có tính tương tác hơn. Tất cả đều là mầm mống để những giao diện người dùng phức tạp, tinh xảo hơn xuất hiện sau này.
Mặc dù vậy, không có một lộ trình cụ thể nào để tạo ra một giao diện người dùng, bởi nó mắc kẹt giữa một bên là khoa học kỹ thuật, bên còn lại tính nghệ thuật, nhân văn. Chris Harrison cho biết, kỹ thuật chỉ có tác dụng nếu các vấn đề được xác định cụ thể, ví dụ nếu muốn xây cầu qua con sông rộng 300 mét thì độ dài của nó phải tối thiểu lấp hết khoảng cách đó. "Hầu hết công việc của chúng tôi lại là đi tìm các vấn đề rồi bắt đầu mở rộng góc nhìn xem liệu có thể đạt được trải nghiệm nào tốt hơn cái mình đã phát hiện hay không. Bạn sẽ phải tách mình khỏi thực tế đôi chút. Chỉ có những người cởi mở và sáng tạo mới có thể làm được như vậy", anh nói thêm.
Theo Chris Harrison, một phần tư duy và kỹ năng này có thể đạt được thông qua giảng dạy. Một tiến sĩ điển hình tại Đại học Carnegie Mellon có thể mất từ sáu đến bảy năm để có được chúng. Thời gian này bị coi là khá dài để sinh viên có thể tiếp cận được với triết lý và cách tiếp cận công nghệ của phòng thí nghiệm. Chưa kể, dù có thể tiếp cận với các linh kiện với công nghệ tiên tiến nhất, sớm hơn nhiều nơi khác, Figlab vẫn khó tạo ra được các công cụ như kế hoạch đề ra ban đầu bởi các ý tưởng cứ liên tục chồng chéo lên nhau khi nghiên cứu.
"Điều này thường xảy ra mỗi khi chúng tôi nghịch ngợm với những gì đang có rồi phát hiện ra nhiều cách mới để tận dụng chúng. Ví dụ, nếu nhận được một cảm biến có khả năng cảm nhiệt bên trong lò luyện thép, chúng tôi sẽ phản ứng kiểu: nếu mình thay đổi và đưa nó vào đồng hồ thông minh thì sẽ thế nào nhỉ? Trời ơi, giờ mình còn có thể dùng nó để làm công nghệ xác thực dựa trên mạch máu nữa", Chris nói.
Giám đốc Figlab thừa nhận 90% nguyên mẫu mà phòng thí nghiệm của mình xây dựng thế nào cũng sẽ thất bại. Lý do bởi công nghệ hiện tại vẫn chưa cho phép, ý tưởng đề ra ban đầu khi áp dụng vào thực tế cho kết quả không được như mong đợi về mặt lý thuyết. Hoặc đơn giản, hiện tại công chúng vẫn chưa hiểu hết được ý nghĩa của những sản phẩm này đối với tương lai. Tuy vậy, họ vẫn quyết định dấn thân bởi hy vọng những phát hiện trong hiện tại sẽ giúp ích được gì đó cho sau này.
Năm 2008, Bill Buxton - nhà nghiên cứu cấp cao tại Microsoft - đã đưa ra một học thuyết gọi là "cái mũi dài của sự đổi mới". Về cơ bản, học thuyết này đưa ra luận điểm rằng bất cứ ý tưởng nào muốn trở thành hiện thực cũng phải mất một thời gian dài để đi từ phòng thí nghiệm đến công chúng. Quá trình này sẽ mất khoảng 25 năm.
Ví dụ, phòng thí nghiệm của nhà nghiên cứu Doug Engelbart ở Đại học Stanford nảy ra khái niệm ban đầu về chuột máy tính vào thập niên 1960, đến 1970 được cải tiến bởi Xerox PARC (giờ là Trung tâm Nghiên cứu Paulo Alto) nhưng phải tới những năm 1980, khi máy tính Apple Macintosh ra đời, mới trở thành sản phẩm cho thị trường đại chúng. Hoặc công nghệ cảm ứng đa điểm cùng tính năng zoom bằng nhiều ngón tay đã xuất hiện từ những năm 1980 nhưng cũng phải tới thập niên 2000 cũng mới trở nên phổ biến nhờ iPhone.
"Mọi người giờ nên đọc lại ngay các bài báo từ đầu những năm 2020 để phát hiện xem công ty nào sẽ trở thành cái tên tỷ USD vào 2030", Chris Harrison nói.
Môi trường phù hợp
Cách tiếp cận của Chris Harrison đối với giao diện người dùng đồng nghĩa với việc mỗi dự án hoàn chỉnh của Figlab đều có video chạy thử để giới thiệu. Nội dung của các video thường nói về những cách hoạt động hấp dẫn nhất mà đội ngũ của ông có thể nghĩ ra và chúng được đưa ra trước khi sản phẩm được lập trình một thời gian rất dài. Nhờ đó, Figlab có thể thu nhận càng nhiều sự chú ý càng tốt, trong đó có cả các "ông lớn" trong ngành công nghệ.
"Các công ty công nghệ thường xem video giới thiệu online hoặc chúng sẽ được chuyển đến các văn phòng thông qua mạng xã hội nội bộ. Mọi người sẽ phấn khích khi xem video và một ai đó sẽ liên lạc và nói: 'Chúng tôi có thể xây dựng một bản dùng thử trên nền tảng của mình không?' hoặc 'Chúng tôi có thể đến xem bản demo trực tiếp không?", Chris cho hay.
Figlab được rất nhiều hãng công nghệ tài trợ, trong đó có Google, Qualcomm và Intel. Gần đây, họ giới thiệu một dự án có tên "Listen Learner" cho phép các loa thông minh nhận diện tốt âm thanh trong nhà khi người dùng đặt câu hỏi: "Tiếng ồn gì đây?". Dự án này Figlab hợp tác với Apple. Theo Chris Harrison, sở dĩ Figlab hấp dẫn đối với các tập đoàn công nghệ lớn bởi đối tác của họ muốn làm việc với một phòng thí nghiệm luôn sẵn sàng thử nghiệm cái mới.
"Điều tuyệt vời và kinh khủng của học thuật là chúng ta có sự tự do về trí tuệ. Điều đó đồng nghĩa có rất ít sản phẩm của chúng tôi được xuất xưởng. Có lẽ 9 trong 10 dự án của chúng tôi sẽ biến vào hư không, thậm chí không có nổi một sự hiện hữu nhỏ nhoi ở thực tế. Người ta không thể điều hành một phòng thí nghiệm công nghiệp kiểu như thế mà phải cố giành được thành công để tồn tại. Phải tách rời thực tại, trau dồi các kỹ năng và sự sáng tạo đến mức lập dị thì mới tạo nên được môi trường thích hợp để biến các ý tưởng thành hiện thực", Chris cho biết.
Tất nhiên, 9 trên 10 ý tưởng bị vứt vào sọt rác không đồng nghĩa thứ còn lại chắc chắn sẽ tạo nên một cuộc đột phá nào trong lĩnh vực máy tính hay điện thoại thông minh. Tuy vậy, nếu phòng thí nghiệm của Chris tạo ra một giao diện người dùng có thể thay đổi cục diện, những thất bại ngắn hạn trong quá khứ sẽ không gây hề hấn gì với thành công đó và anh cũng sẽ không bao giờ phải trăn trở bất cứ điều gì về tương lai nữa.
Đức Trí (theo Digital Trends)