Louis Menand -
Số là năm đó, cuốn tiểu thuyết Beloved của Toni Morrison cũng ra đời, cũng lọt vào vòng chung khảo và gần như nắm chắc vị trí mà sau đó đã thuộc về Larry Heinemann. Chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, Morrisons và bạn bè của bà đã rất thất vọng. Bởi, sau khi Beloved để vuột luôn cả giải thưởng National Book Critics Circle (thuộc về tác phẩm The Counterlife của Philip Roth), 48 người bạn thân của nữ nhà văn đã gửi đến tạp chí Times Book Review một bức thư, viết rằng: "Bất luận Toni Morrison là một nhà văn tầm cỡ thế giới, dù tác phẩm của bà hoàn toàn xứng đáng, bà vẫn chưa được giải thưởng National công nhận. Bà chưa từng được đứng trên đỉnh cao giải National Book hay Pulitzer. Chúng tôi, những nhà văn, nhà phê bình thấp cổ bé họng ký tên dưới đây khẳng định, chúng tôi phản đối sự sơ suất kỳ lạ và tai hại này. Tiếng nói chính đáng của chúng tôi đối với nền văn học của chúng ta không thể tiếp tục bị bỏ ngoài tai". Vài tháng sau, Beloved đoạt giải Pulitzer dành cho tiểu thuyết. 5 năm sau, nhà văn Morrison giành giải Nobel.
James English đã đề cập khá kỹ lưỡng về chi tiết này trong cuốn sách The Economy of Prestige - một tác phẩm phân tích về lịch sử và chức năng xã hội của các giải thưởng văn hóa. Ông cho rằng, hành động trên là một kế hoạch có sự thỏa thuận và đã được chuẩn bị kỹ lưỡng khi họ cho in những phản ứng của mình trên tờ The Times.
Đấy không chỉ là sự phàn nàn về việc Ban tổ chức không biết chọn mặt gửi vàng. Những nhận xét như vậy đã xưa cũ như chính bản thân giải thưởng. Khi Nobel Văn học lần thứ nhất được trao cho Sully Prudhomme vào năm 1901, sự lựa chọn này đã lập tức gây tranh cãi, bởi lúc đó, nhà văn vĩ đại Leo Tolstoy vẫn còn sống. Viện Hàn lâm Thụy Điển lúc đó đã rất khó chịu khi nhận được những lời chỉ trích của dư luận rằng, các thành viên của Viện đã "quán triệt": lờ Tolstoy đi để tôn vinh những tác giả khác như Bjørnstjerne Bjørnson, José Echegaray, Henryk Sienkiewicz, Giosuè Carducci, Rudolf Eucken và Selma Lagerlöf. Xung quanh những giải thưởng về văn học nghệ thuật, tồn tại vô số những "lời ong tiếng ve", nào là: giải thưởng bị ảnh hưởng bởi những yếu tố chính trị, giải thưởng nhằm phục vụ danh tiếng hay quyền lợi kinh tế của một nhóm người nào đó, hoặc thậm chí, có những lúc người ta coi bản thân các giải thưởng là vô nghĩa, là một sự xúc phạm bởi nghệ thuật vốn dĩ không phải là một cuộc tranh đua. English cho rằng, sự coi khinh giải thưởng không hề làm tổn thương đến hệ thống giải thưởng, mà ngược lại sự coi khinh giải thưởng là tất cả những gì mà hệ thống này tạo ra. Ông viết: "Nguy cơ đối mặt với các vụ bê bối là một yếu tố cấu thành nên các giải thưởng về văn hóa, nghệ thuật".
Ông đưa ra lập luận rằng, khi người ta phản đối sự tồn tại tự nhiên của các giải thưởng là lúc người ta đang cố gắng tìm kiếm một bộ sưu tập dẫn chứng cho niềm tin rằng: Nghệ thuật đích thực không hề liên quan đến những thứ như chính trị, tiền bạc, quyền lợi, chiến thắng người này hay người khác. Để tin rằng sáng tạo là một hoạt động đặc biệt, tác phẩm nghệ thuật không phải là một thứ hàng hóa được sản xuất ra, đánh bóng để rồi tung ra thị trường, người ta cần các giải thưởng để chỉ ra rằng, giải thưởng thật sự là ngớ ngẩn. Không ai nghĩ rằng, Tolstoy lại bớt vĩ đại đi vì ông không nhận được giải Nobel, mà cuối cùng việc không được Viện Hàn lâm Thụy Điển tôn vinh lại là một dấu hiệu thể hiện sự vĩ đại của nhà văn.
Nobel Văn học là giải thưởng đầu tiên khởi nguồn cho các giải thưởng văn hóa hiện đại. Tiếp sau đó là Prix Goncourt (1903), Pulitzer (hình thành năm 1904, trao thưởng lần đầu năm 1917), Emmys (1949), Grammys (1959). Theo English, bắt đầu từ thập kỷ 70 của thế kỷ 20, các giải thưởng văn học, văn hóa mọc lên như nấm. Ngày nay, trong ngành điện ảnh, với hơn 9.000 giải thưởng hàng năm, các lễ trao giải nhiều hơn cả các buổi công chiếu những bộ phim mới. Số lượng các giải thưởng văn học dường như cũng lớn hơn cả số đầu sách ra đời. Khi một nhân vật văn hóa, một Mạnh Thường Quân, một nhà phê bình hoặc một giáo sư lỗi lạc qua đời lại nảy ra một giải thưởng mang tên họ. Cũng theo tác giả English, các giải thưởng này thường do thân nhân người đã quá cố thiết lập nhưng hầu như họ không ý thức được việc tổ chức một giải thưởng tốn kém đến mức nào. Chi phí đổ vào công tác tổ chức, quảng bá vượt xa giá trị thật của các giải thưởng. Giải Van Cliburn tiêu tốn hơn 3 tỷ USD hằng năm chỉ để trao cho mỗi 20.000 USD cho mỗi một người thắng cuộc. Xét về giá trị kinh tế, tình hình phân phối các giải thưởng lại chẳng khác gì nước chảy chỗ trũng. Đến nay, Michael Jackson đã được nhận khoảng hơn 240 giải thưởng, tiếp theo đó là Steven Spielberg với 90 lần được vinh danh với các danh hiệu khác nhau. Về lĩnh vực thơ ca, theo English dự đoán, người nắm chức quán quân phải kể đến nhà thơ John Ashbery với 45 giải và tặng thưởng, tiểu thuyết gia John Updike đứng ở vị trí thứ hai với 39 lần chiến thắng tại các cuộc tranh đua.
English cắt nghĩa, các giải thưởng bùng phát do chúng là một phần của "cuộc đấu tranh giành quyền sản xuất ra giá trị - một thứ quyền lực tạo giá trị cho những thứ về bản chất là không có giá trị". Trong ngành kinh tế kinh doanh thông tin ngôn ngữ và hình tượng, bản thân hàng hóa không có giá trị vật chất, chúng đơn giản được in lên sách hoặc mã hóa vào một chiếc đĩa. Cái làm nên giá trị của chúng là sự thừa nhận rằng chúng có giá trị. Sự thừa nhận này không phải là kết quả của một quá trình quan sát trực giác tự động, mà nó là kết quả của một quá trình do con người xây dựng. Một tác phẩm nghệ thuật thường được lưu thông qua một loạt yếu tố trung gian như: nhà xuất bản, nhà sản xuất, nhà phát hành, nhà phê bình... Hệ thống giải thưởng, cùng với một lực lượng hùng hậu những người quản lý và các thành viên Ban giám khảo là một trong muôn vàn cách thức giúp "gắn" thêm giá trị vào tác phẩm.
Chính vì vậy, theo quan điểm của English, bạn bè và những người hâm mộ Morrison không chỉ công khai chỉ trích sự lựa chọn của Ban giám khảo giải thưởng National Book mà đánh giá cao tầm quan trọng của giải thưởng, mà theo ngôn ngữ của họ là "yếu tố quyết định" công nhận giá trị của một cuốn sách hoặc khẳng định tầm cỡ của một nhà văn.
Cũng trong cuốn sách của mình, English còn phân tích bản chất và mục đích của nhiều giải thưởng văn học trên thế giới thông qua các dẫn chứng cụ thể và sinh động khác.
H.T. trích dịch
(Nguồn: The New Yorker)