Dải xét nghiệm kháng thể nCoV phát triển trong phòng thí nghiệm. Ảnh: Sina. |
Nhóm nghiên cứu phụ trách bởi ông Liu Zhirong, giám đốc Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát dịch bệnh tỉnh An Huy, Trung Quốc đã phát triển thành công dải xét nghiệm kháng thể IgM và IgG của nCoV, giúp xác định cụ thể khoảng thời gian và đánh giá khả năng lây nhiễm của virus.
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm sử dụng kỹ thuật miễn dịch sắc ký vàng dạng keo để phát hiện trực tiếp nồng độ kháng thể IgM hoặc IgG trong nCoV của các mẫu máu cần xét nghiệm. Kết quả xét nghiệm có thể kiểm tra bằng mắt thường nhờ màu sắc của dải thử nghiệm.
Kháng thể IgM và IgG đều thuộc globulin miễn dịch (protein hình cầu) mà nCoV tạo ra để bảo vệ chúng. Khi cơ thể con người bị nCoV xâm nhập, kháng thể IgM được tạo ra đầu tiên, xuất hiện khoảng một tuần sau khi virus xâm nhập trong thời gian ngắn, nếu cơ thể bị virus xâm nhập trở lại, chúng tiếp tục tạo ra kháng thể IgG chống lại cơ thể.
Vì vậy, IgM là dấu hiệu lây nhiễm trong khoảng thời gian ngắn của nCoV, IgG là dấu hiệu lây nhiễm trong khoảng thời gian dài. Hầu hết các kháng thể IgM đặc hiệu của nCoV thường được tạo ra sau 3-5 ngày sau khi người bệnh được phát hiện dương tính với nCoV. Bằng dải xét nghiệm phát hiện hai loại kháng thể này, nhóm nghiên cứu không chỉ cho biết cơ thể âm tính hay dương tính với nCoV, mà còn xác định cụ thể khoảng thời gian người bệnh bị lây nhiễm.
Ông Liu cho biết, so với việc xét nghiệm axit nucleic của nCoV hiện tại, phương pháp phát hiện kháng thể của nCoV giúp giảm thiểu nguy cơ phơi nhiễm mẫu bệnh hô hấp cho nhân viên y tế trong quá trình phát hiện và lấy mẫu axit nucleic. Các bước phát hiện kháng thể nhanh và đơn giản hơn, không yêu cầu nhiều dụng cụ và thiết bị chuyên dụng nào vì có thể quan sát bằng mắt thường, thuận tiện cho các cơ sở y tế địa phương.
Hiện tại, dải xét nghiệm kháng thể nCoV của nhóm đã vượt qua xác minh lâm sàng sơ bộ. Dải xét nghiệm có độ chính xác, ổn định và độ lặp lại tốt, đáp ứng các yêu cầu ứng dụng lâm sàng kịp thời, cung cấp các phương pháp đáng tin cậy. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu đang trong quá trình thu thập thêm dữ liệu về độ nhạy và độ đặc hiệu của phương pháp này. Độ nhạy càng cao, tỷ lệ âm tính giả càng thấp, cho kết quả chẩn đoán chính xác. Độ đặc hiệu cho thấy xác suất phát hiện âm tính ở người bệnh. Độ đặc hiệu càng cao, tỷ lệ dương tính giả càng thấp và kết quả chẩn đoán sai càng ít.
Nguyễn Xuân (Theo The People )