Việc trao quyền phạt cho cổ đông nhà nước khi doanh nghiệp chậm trả cổ tức đã tạo ra nhiều ý kiến trái chiều nhưng thống nhất ở điểm: khó thực hiện!
Ông Khúc Dương Thọ, Công ty Luật hợp danh Luật Việt: “Nếu phạt chậm cổ tức, sẽ có nhiều vấn đề phát sinh”.
Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 21/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh việc thu nộp và quản lý Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp và các đối tượng có liên quan. Do vậy, chỉ các doanh nghiệp có vốn nhà nước do Quỹ quản lý mới chịu sự điều chỉnh của Quy chế.
Việc tính lãi, nộp phạt và cưỡng chế theo Điều 4.3 Quy chế được hiểu là một biện pháp hành chính đối với các doanh nghiệp do Nhà nước quản lý và việc thực hiện sẽ có nhiều vấn đề phát sinh cần giải quyết. Đối với khoản phải nộp cho Quỹ là cổ tức, thì các vấn đề có thể phát sinh là: thời hạn để tính là đến hạn trả cổ tức, trả cổ tức chậm bị phạt thì ai phải gánh chịu khoản phạt này (ảnh hưởng tới quyền lợi của các cổ đông trong doanh nghiệp ), công bằng giữa cổ đông là Nhà nước và các cổ đông khác…
Một điều chú ý là Quy chế không áp dụng với các cổ đông không phải là Nhà nước. Do vậy, các cổ đông không phải là Nhà nước không có quyền phạt doanh nghiệp chậm trả cổ tức và/hoặc có biện pháp cưỡng chế doanh nghiệp phải nhanh chóng thực hiện nghĩa vụ thanh toán cổ tức, nếu không có quy định cụ thể trong Điều lệ hoặc quy định nội bộ của doanh nghiệp .
Liên quan tới vấn đề cổ tức, theo Điều 93.2 Luật Doanh nghiệp, cổ tức trả cho cổ đông phổ thông được xác định căn cứ vào số lợi nhuận ròng đã thực hiện và khoản chi trả cổ tức được trích từ nguồn lợi nhuận giữ lại của doanh nghiệp. Không có quy định cụ thể về việc phạt doanh nghiệp nếu chậm trả cổ tức cho các cổ đông. Do vậy, để xác định vấn đề này, Điều lệ hoặc quy định nội bộ của doanh nghiệp phải nêu rõ mới có thể áp dụng được. Trong trường hợp Điều lệ hoặc quy định nội bộ không quy định, các cổ đông có thể vận dụng quyền hạn của mình để sửa đổi điều lệ hoặc bãi miễn hoặc thay thế các thành viên HĐQT, tổng giám đốc.
Ngoài ra, tôi cho rằng, nếu chứng minh được rõ ràng thời hạn trả cổ tức đã bị vi phạm, thì cổ đông có thể tiến hành khởi kiện, yêu cầu doanh nghiệp trả nợ khoản này cộng với một phần lãi suất cho thời hạn bị quá hạn. Sau đó, cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 6 tháng có quyền yêu cầu Ban kiểm soát khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên HĐQT, giám đốc (tổng giám đốc) gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Ông Trương Thanh Đức, Chủ tịch Công ty Luật BASICO: “Mấu chốt là ngày thực hiện phân chia cổ tức”.
Không có cơ sở pháp lý vì luật, nghị định liên quan không có quy định nào về thời hạn phải thanh toán cổ tức, mà là do công ty quyết định. Việc xử phạt sự chậm trễ này là một dạng xử phạt vi phạm hành chính, phải do Quốc hội hoặc Chính phủ quy định, chứ không phải theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Không có ý nghĩa trên thực tế vì việc chậm thanh toán cổ tức luôn đồng nghĩa với việc chậm công bố “ngày thực hiện phân chia cổ tức” theo Quyết định số 21/2012/QĐ-TTg, chứ doanh nghiệp không dại gì công bố ngày thực hiện rồi mà lại không chịu chi trả. Nghị quyết của ĐHCĐ luôn ghi rõ là chia cổ tức bao nhiêu phần trăm, nhưng chưa từng thấy ghi ngày nào sẽ chia. Tức sau một vài năm mà HĐQT và tổng giám đốc không ấn định ngày “thực hiện phân chia cổ tức” theo nghị quyết của đại hội cổ đông, thì cũng không bị quá thời hạn phân chia cổ tức.
Để xử lý vấn đề này, thì Luật DN hoặc ít nhất là Nghị định hướng dẫn Luật phải quy định rõ thời hạn doanh nghiệp phải chi trả cổ tức trong điều kiện bình thường và trường hợp ngoại lệ, giống như thời hạn phải tổ chức họp đại hội cổ đông.
Ông Lê Thành Vinh, Phó tổng giám đốc Công ty Luật SMIC: “Các cổ đông là bình đẳng nhau về quyền lợi”.
Khi đã có nghị quyết của HĐTV/ĐHCĐ về mức chia lợi nhuận/cổ tức cho các thành viên góp vốn/cổ đông, doanh nghiệp có nghĩa vụ thanh toán các khoản lợi nhuận, cổ tức đó. Bất cập hiện nay là pháp luật thiếu quy định về thời hạn mà doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ này. Thành viên góp vốn/cổ đông vì vậy sẽ rất khó khăn nếu doanh nghiệp chây ì thanh toán. Họ cũng khó khiếu nại hay khiếu kiện về sự chậm trễ của những người quản lý doanh nghiệp triển khai nghị quyết của HĐTV/ĐHCĐ, vì lý do “chưa vi phạm thời hạn thực hiện”.
Xét trong bối cảnh này, Quyết định 21/2012/QĐ-TTg quy định thời hạn doanh nghiệp phải nộp khoản tiền này vào Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp kèm theo quy định về lãi phạt vi phạm và cưỡng chế trích tiền từ tài khoản của doanh nghiệp là cần thiết để bảo vệ quyền lợi của Nhà nước.
Tuy nhiên, nếu không bảo vệ quyền lợi của cổ đông/thành viên góp vốn khác, thì sẽ phát sinh nhiều vấn đề. Trong doanh nghiệp, các cổ đông/thành viên góp vốn là bình đẳng nhau về quyền lợi theo quy định của pháp luật. Họ đều có quyền hưởng lợi nhuận/cổ tức trên phần vốn góp/cổ phần của mình. Đây là nguyên tắc cơ bản, không có cơ sở nào cho phép đặt ra quy định ưu tiên lợi ích của cổ đông/thành viên góp vốn nhà nước trên lợi ích của cổ đông/thành viên góp vốn tư nhân trong cùng một doanh nghiệp.
Nếu vì sợ Nhà nước “phạt vi phạm” mà người quản lý doanh nghiệp thực hiện thanh toán trước cổ tức/lợi nhuận cho Nhà nước, họ sẽ phải đối mặt với nguy cơ cổ đông/thành viên góp vốn khác kiện đòi thanh toán.
Quy định về việc phạt chậm nộp các khoản thu về Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp có thể là hợp lý đối với các khoản tiền bán, giao doanh nghiệp hoặc thu phần giá trị thặng dư đối với việc cổ phần hoá doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Còn đối với khoản tiền cổ tức thì tôi cho rằng, không có cơ sở pháp lý để phạt và không có ý nghĩa trên thực tế.
Chậm trả cổ tức, cổ đông nhà nước sẽ phạt doanh nghiệp
Theo ĐTCK