Theo quy định tại Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự, vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Như vậy, với tình tiết bạn nêu thì con dao mà bạn đã vứt đi có thể là vật chứng nếu nó được sử dụng để gây án hoặc nó mang dấu vết tội phạm.
Theo quy định, vật chứng cần được thu thập kịp thời, đầy đủ, được mô tả đúng thực trạng vào biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án. Trong trường hợp vật chứng không thể đưa vào hồ sơ vụ án thì phải chụp ảnh và có thể ghi hình để đưa vào hồ sơ vụ án. Vật chứng phải được niêm phong, bảo quản.
Đối với cá nhân được giao trách nhiệm bảo quản vật chứng mà để mất mát, hư hỏng, phá huỷ niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc hủy hoại vật chứng của vụ án thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 310 của Bộ luật hình sự về tội Vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản.
Trong trường hợp thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng vật chứng của vụ án nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ án, người liên quan phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 300 của Bộ luật hình sự về tội Làm sai lệch hồ sơ vụ án; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Đối với người không hứa hẹn trước mà hủy hoại vật chứng trong các tội quy định tại khoản 1 Điều 313 Bộ luật Hình sự (nhằm che giấu tội phạm) thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Che giấu tội phạm.
Đối chiếu với các quy định nói trên, bạn không thuộc trường hợp được giao quản lý vật chứng, bạn cũng không biết việc trước đó người bạn của bạn đã phạm tội nên hành vi vứt con dao gây án của bạn không cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, với tư cách là nhân chứng, bạn cần hợp tác tích cực với cơ quan điều tra để vụ án được giải quyết khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty luật Bảo An, Hà Nội