Hiện nay, tình trạng vượt biên trái phép sang nước ngoài của người lao động đang trở thành vấn nạn của nhiều địa phương. Đây là một việc làm trái pháp luật, dẫn đến nhiều rủi ro đối với người lao động. Khi vượt biên trái phép, không có đầy đủ giấy tờ, người lao động dễ dàng bị người sử dụng lao động lừa gạt, bóc lột sức lao động, không trả tiền công lao động. Hơn nữa, khi bị bắt giữ, những người vượt biên trái phép phải chịu các hình thức xử lý theo pháp luật của nước sở tại như bị giam giữ, buộc lao động công ích, bị phạt tiền, buộc trục xuất về nước, có trường hợp còn bị ép hiến máu…
Pháp luật Việt Nam hiện hành có những quy định về việc xử phạt người vượt biên trái phép. Điều 17 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy địn: Phạt tiền 3-5 triệu đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Qua lại biên giới quốc gia mà không làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh theo quy định;
b) Trốn hoặc tổ chức, giúp đỡ người khác trốn vào các phương tiện nhập cảnh, xuất cảnh nhằm mục đích vào Việt Nam hoặc ra nước ngoài;
c) Cho người khác sử dụng hộ chiếu, giấy tờ có giá trị thay hộ chiếu để thực hiện hành vi trái quy định của pháp luật;
d) Sử dụng hộ chiếu hoặc các giấy tờ khác có giá trị thay hộ chiếu của người khác để nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh;
đ) Người nước ngoài không khai báo tạm trú theo quy định hoặc sử dụng chứng nhận tạm trú, thẻ tạm trú, thẻ thường trú ở Việt Nam quá thời hạn từ 16 ngày trở lên mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép;
e) Người nước ngoài đã được cấp thẻ thường trú mà thay đổi địa chỉ nhưng không khai báo để thực hiện việc cấp đổi lại”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, hành vi vượt biên trái phép sẽ bị phạt tiền 3-5 triệu đồng.
Ngoài ra, người có hành vi hành vi vượt biên trái phép có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 274 Bộ luật Hình sự hiện hành về Tội xuất cảnh, nhập cảnh trái phép; tội ở lại nước ngoài hoặc ở lại Việt Nam trái phép. Điều luật này quy định: “Người nào xuất cảnh, nhập cảnh trái phép hoặc ở lại nước ngoài, ở lại Việt Nam trái phép, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
Đối với những người tổ chức cho người khác vượt biên thì sẽ bị xử lý ở mức độ nặng hơn. Họ có thể bị xử lý hình sự ngay trong lần đầu tiên, mức hình phạt cho lần đầu có thể đến bảy năm, nếu nhiều lần thì có thể đến 12 năm và nếu gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì có thể bị phạt đến 20 năm tù.
Sau khi bị xử phạt hành chính về hành vi vượt biên, công dân sẽ thuộc trường hợp chưa được xuất cảnh (cấm xuất cảnh) theo quy định tại Khoản 7 Điều 21 Nghị định 136/2007/NĐ-CP với thời hạn có thể lên đến ba năm. Ngoài ra, theo quy định của Luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, một trong các điều kiện để được tham gia xuất khẩu lao động là phải có xác nhận về việc chấp hành quy định pháp luật của chính quyền địa phương. Do vậy, vi phạm này có thể sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nguyện vọng được đi xuất khẩu lao động chính đáng, hợp pháp của công dân sau này.
Nếu một công dân nhập cảnh trái phép vào một quốc gia thì tùy theo quy định của từng nước mà công dân đó có thể bị cấm nhập cảnh trở lại trong một thời gian nhất định hoặc vĩnh viễn. Ví dụ như ở Australia, quy định của nước này cấm nhập cảnh vĩnh viễn đối với các công dân nước ngoài từng nhập cảnh trái phép vào đất nước họ.
Luật sư Phạm Thị Thu
Công ty Luật số 1 Hà Nội