Theo quy định tại mục 1 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 3/1/2000 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình: Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987 (ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn thì toà án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung.
Cần chú ý là trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực hiện việc đăng ký kết hôn, quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn.
Đối chiếu với quy định vừa trích dẫn ở trên, vợ chồng bạn về chung sống với nhau vào năm 1980, trước ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực nên dù không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn, quan hệ hôn nhân vẫn được xác lập và công nhận kể từ thời điểm về chung sống với nhau. Tuy nhiên, cần lưu ý, quan hệ hôn nhân thực tế của vợ chồng bạn được xác lập năm 1986 cũng cần đủ điều kiện kết hôn và không vi phạm điều cấm kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (đang có hiệu lực vào thời điểm bắt đầu chung sống) thì mới được pháp luật hiện hành công nhận là hôn nhân thực tế.
Cụ thể:
- Điều kiện kết hôn: Con gái từ 18 tuổi trở lên, con trai từ 20 tuổi trở lên
- Cấm kết hôn đối với: Người đang có vợ có chồng; những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; giữa anh chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; giữa những người khác có họ trong phạm vi 5 đời hoặc quan hệ thính thuộc về trực hệ; người bất lực hoàn toàn về sinh lý; người mắc một trong các bệnh hủi, hoa liễu, loạn óc mà chưa chữa khỏi.
Trường hợp vợ chồng bạn đủ điều kiện và được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế thì việc mẹ chồng bạn cho rằng bạn không phải là vợ hợp pháp của chồng bạn là không có căn cứ.
Bên cạnh đó, khi chồng bạn mất, căn nhà là tài sản chung của vợ chồng bạn sẽ được định đoạt như sau: Tài sản chung sẽ được chia đôi và theo quy định của Bộ luật dân sự nếu chồng bạn chết không để lại di chúc thì tài sản sẽ được chia theo quy định của pháp luật. Bạn là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên cũng sẽ được chia một phần bằng với những người thừa kế khác.
Trong trường hợp, vợ chồng bạn không đủ điều kiện để được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế thì không được công nhận là vợ chồng. Tài sản của hai bạn khi đó sẽ được chia như sau: tài sản riêng của ai thuộc về người đó. Tài sản chung phân chia theo nguyên tắc phân chia tài sản thuộc sở hữu chung theo quy định của Bộ luật dân sự.
Luật sư, Thạc sĩ Phạm Thanh Bình
Công ty Luật Bảo Ngọc, Hà Nội