Khoản 1 Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Khoản 4 Điều 98 Luật Đất đai năm 2013 cũng quy định: Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người.
Trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng mà Giấy chứng nhận đã cấp chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc chồng thì được cấp đổi sang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất để ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng, nếu có yêu cầu.
Như vậy, khi quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền là tài sản chung của vợ chồng thì giấy chứng nhận (“sổ đỏ”) ghi tên chung của cả vợ và chồng.
Chỉ ghi tên một người nếu có thỏa thuận của vợ chồng, theo quy định tại Khoản 4 Điều 98 của Luật Đất đai. Nếu vợ hoặc chồng từ chối sở hữu đất thì mặc định toàn quyền sở hữu thuộc về người còn lại.
Câu 4: Vợ không đồng ý, chồng có được mang sổ đỏ đi thế chấp?