Luật sư trả lời
Theo điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về trách nhiệm liên đới của vợ, chồng:
"1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này.
2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại điều 37 của Luật này".
Theo điều 37, các nghĩa vụ sau đây sẽ dùng tài sản chung của vợ chồng để giải quyết:
"1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan".
Điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng với người thứ ba khi ly hôn quy định: Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các điều 27, 37 và 45 của Luật này và quy định của Bộ Luật dân sự để giải quyết.
Theo đó, tiền vay ngân hàng đó là khoản nợ chung của anh chị trong thời kỳ hôn nhân. Về mặt pháp lý, sau khi ly hôn, anh chị không còn là vợ chồng nữa nhưng việc yêu cầu tòa án chia tài sản, bao gồm cả các khoản nợ được hình thành trong thời kỳ hôn nhân vẫn được hiểu là tài sản chung và nghĩa vụ của vợ chồng. Việc chia tài sản chung sau khi ly hôn cũng được áp dụng tương tự các quy định của pháp luật như chia tài sản khi ly hôn.
Theo quy định, khoản nợ chung vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yêu tố cụ thể được quy định tại khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác...
Như vậy, trong trường hợp đã ly hôn, chị vẫn có trách nhiệm trong việc liên đới trả khoản nợ chung đứng tên vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Hai người có thể tự thỏa thuận với nhau về khoản nợ và trả ngân hàng theo đúng thời hạn. Nếu không, anh, chị có quyền yêu cầu tòa án để giải quyết.
Luật sư Quách Thành Lực
Công ty Luật TNHH LSX