I
Lệch lạc tính dục
Để giải thích các nhu cầu tính dục của con người và của con vật, trong sinh học người ta sử dụng giả thuyết tồn tại một "xung năng tính dục"; điều đó cũng giống như để giải thích cơn đói, người ta giả định có xung năng dinh dưỡng. Tuy nhiên, để nói về nhu cầu tính dục, ngôn ngữ dân gian không có thuật ngữ tương ứng với từ cơn đói; còn ngôn ngữ khoa học dùng thuật ngữ: "libido" (dục năng)
Dư luận đại chúng tạo nên một số định kiến về bản chất và đặc trưng của xung năng tính dục. Chẳng hạn, người ta nhất trí nói rằng cái xung năng ấy vắng bóng trong thời thơ ấu, rằng nó hình thành vào lúc dậy thì, và nó có liên quan mật thiết với quá trình dẫn đến sự trưởng thành, rằng nó biểu hiện dưới dạng một sức hút không cưỡng lại được do một người thuộc giới tính này gây ra đối với một người khác thuộc giới tính kia và rằng mục đích của người đó là sự giao hoà tính dục, hay ít là một tổng thể cá chành vi hướng tới mục đích đó.
Chúng tôi có lý do để tin rằng sự miêu tả này chỉ diễn tả được một phần rất nhỏ hiện thực. Nếu phân tích kỹ, ta sẽ phát hiện ra hàng đống sai sót, những điều không chính xác và những đánh giá vội vã.
Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xác định hai thuật ngữ. Người gây ra sự quyến rũ tính dục sẽ được gọi là đối tượng tình dục, và hành vi mà xung năng thúc đẩy sẽ được gọi là mục đích tình dục. Thí nghiệm khoa học chứng tỏ cho ta thấy có nhiều lệch lạc khi thì ở đối tượng, khi thì ở mục đích tình dục, mà chúng ta cần nghiên cứu sâu mối liên quan giữa các sai lệch đó với cái mà ta coi là trạng thái bình thường của sự vật.
I. Những lệch liên quan đến đối tượng tình dục
Chúng ta tìm thấy cách diễn giải hay nhất khái niệm dân gian về xung năng tính dục trong truyền thuyết đầy thi vị kể rằng nhân loại bị chia thành hai nửa - đàn ông và đàn bà - từ đó họ luôn có xu hướng hợp nhất bởi tình yêu. Điều đó lý giải tại sao người ta rất ngạc nhiên khi biết một số đàn ông có đối tượng tình dục không phải là đàn bà, mà là đàn ông, và tương tự như vậy, một số đàn bà lại có đối tượng tình dục là đàn bà.
Người ta gọi những người thuộc loại đó là đồng tính luyến ái (homosexuel) hay đúng hơn là những người bị nghịch đảo giới tính (inverti), và gọi hiện tượng đó là hiện tượng nghịch đảo giới tính (inverrsion). Chắc chắn có rất đông người bị giới tính nghịch đảo, nhưng nhận diện được họ thường vẫn rất khó khăn.
A. Nghịch đảo giới tính
Cách ứng xử của những người nghịch đảo giới tính - người ta phân biệt các loại sau:
a. Những người nghịch giới tuyệt đối, tức là những người chỉ có đối tượng tình dục là người cùng giới tính với họ, còn những người khác giới đều khiến họ thờ ơ hoặc thậm chí gây cho họ một sự ghê tởm tình dục. Nếu như người đó là đàn ông, do có sự ghê tởm đó, anh ta sẽ không có khả năng thực hiện hành vi tình dục bình thường, hay chí ít, anh ta sẽ không tìm thấy một chút hứng thú nào.
b. Những người nghịch giới (ái nam, ái nữ về mặt tâm lý giới tính), tức là những người có thể có đối tượng tình dục là người cả giới này lẫn giới kia không phân biệt. Như vậy, loại nghịch đảo giới tính này sẽ không có đặc trưng về tính chuyên môn.
c. Những người nghịch giới cơ hội. Hiện tượng nghịch đảo giới tính khi đó do ngoại cảnh quy định, đặc biệt do thiếu vắng một đối tượng tình dục bình thường, hoặc do ảnh hưởng của môi trường.
Những người giới tính nghịch đảo ứng xử khác nhau tuỳ theo cách họ tự đánh giá về đặc thù giới tính của mình. Đối với một số người, sự nghịch đảo giới tính là một chuyện tự nhiên như khuynh hướng dục năng libido của họ, họ coi việc đó là bình thường. Họ đòi hỏi có luật để cho sự nghịch đảo giới tính được đặt ngang hàng với giới tính bình thường. Một số người khác phản kháng chống lại hiện tượng nghịch giới của họ và cảm nhận nó như một nỗi bức bách bệnh hoạn.
Người ta còn phân biệt các loại nghịch đảo giới tính khác nhau theo quãng đời lúc các biểu hiện tính dục đó xuất hiện. Ở một số người, hiện tượng nghịch đảo giới tính dường như có từ lâu, không thể nhớ được nữa. Ở một số người khác, hiện tượng đó biểu hiện vào một thời điểm xác định, trước hoặc sau dậy thì. Đặc trưng tính dục này có thể được lưu giữ suốt đời, mà cũng có thể biến mất nhanh chóng; nó có thể chỉ là một đoạn nhỏ dẫn tới bước tiến triển bình thường. Cuối cùng, nó có thể xuất hiện muộn màng, sau một thời kỳ dài có giới tính bình thường. Người ta thậm chí đã lưu ý các trường hợp dao động theo thời kỳ giữa một đối tượng tình dục bình thường và một đối tượng tình dục đồng giới. Những trường hợp dục năng libido ngả theo hướng đảo giới tính sau khi có trải nghiệm đau khổ với một đối tượng tình dục bình thường, là những ca đặc biệt thú vị.
Các loại biến thể khác nhau đó nói chung độc lập với nhau. Ở dạng cực đoan nhất, dạng nghịch đảo giới hoàn toàn, ta có thể chấp nhận là đặc thù giới tính xuất hiện sớm trong đời và cá nhân đó sống hoà hợp được với nó.
Chắc chắn nhiều tác giả sẽ từ chối gom các ca khác nhau kể trên vào cùng một rọ, bởi vì họ nhấn mạnh tới những khác biệt chứ không phải tới những tương đồng của chúng, như thế mới phù hợp với quan điểm của họ về hiện tượng nghịch đảo giới tính. Nhưng cho dù các chia rẽ bất đồng là chính đáng, người ta không thể không nhận thấy tất cả các cấp độ trung gian đều có thể gặp nhau, đến mức dường như cần thiết phải có một khái niệm về loại.
Lý thuyết về hiện tượng nghịch đảo giới tính. Nghịch đảo giới tính thoạt đầu được coi là dấu hiệu thoái hoá thần kinh bẩm sinh. Điều đó được lý giải qua việc những người đầu tiên các thầy thuốc quan sát thấy có sự nghịch đảo giới tính là những người bị bệnh thần kinh, hay ít ra mọi biểu hiện bề ngoài có vẻ bị bệnh. Luận thuyết này chứa hai điều khẳng định cần phải được xem xét một cách riêng rẽ, đó là nghịch đảo giới tính có đặc tính bẩm sinh, và nghịch đảo giới tính là dấu hiệu thoái hoá.
Sự thoái hóa. Việc sử dụng tràn lan không suy xét thuật ngữ thoái hoá làm dấy lên nhiều ý kiến phản bác. Dần dần người ta quen gọi tất cả các biểu hiện bệnh lý có nguyên nhân không rõ thuộc chấn thương hay nhiễm trùng là bệnh thoái hóa. Theo bảng phân loại thoái hóa do Magnan đưa ra, ta có thể áp dụng thuật ngữ thoái hóa cho các ca mà hoạt động của hệ thần kinh hoàn toàn tốt. Vậy thì giá trị và nội dung mới của khái niệm thoái hóa này có thể là gì đây? Có lẽ tốt nhất không nên nói về thoái hóa trong các trường hợp sau:
1.Khi không đi kèm các biểu hiện sai lệch khác.
2.Khi toàn bộ chức năng và hoạt động của cá thể không bị hư hỏng nghiêm trọng.
Có lẽ những người đồng tính luyến ái không bị thoái hóa theo nghĩa trên, điều đó suy ra từ tổng thể các sự kiện sau:
1.Người ta thấy hiện tượng nghịch đảo giới tính ở một số người không có các biểu hiện lệch lạc nghiêm trọng khác.
2. Người ta bắt gặp hiện tượng đó ở những người có sự hoạt động chung không bị rối loạn và thậm chí có thể có sự phát triển tinh thần và trí tuệ đạt mức rất cao.
3. Đứng ở góc độ tổng quát hơn góc độ của thầy thuốc lâm sàng mà xét, người ta gặp hai loại việc ngăn ta coi sự nghịch đảo giới tính như là một vết sẹo để lại của thoái hoá, đó là:
a. Không nên quên nghịch đảo giới tính từng là một thực tiễn thường xuyên xảy ra, có thể nói hầu như là một định chế quan trọng ở các cư dân thời Cổ đại, và giai đoạn văn minh cao nhất của họ.
b. Hiện tượng nghịch đảo giới tính cực kỳ phổ biến trong các tộc nguyên thuỷ và hoang dã trong khi đó thuật ngữ thoái hoá thường chỉ áp dụng duy nhất cho các nền văn minh tiến bộ (I.Bloch). Ngay cả giữa các dân tộc văn minh khác nhau ở châu Âu, khí hậu và chủng tộc cũng ảnh hưởng đáng kể tới mức độ phổ biến của hiện tượng nghịch đảo giới tính và thái độ đạo đức trước hiện tượng đó.
Đặc tính bẩm sinh của hiện tượng nghịch đảo giới tính. Người ta đã coi hiện tượng nghịch giới ở duy nhất những người đồng tính luyến ái tuyệt đối như là nghịch giới bẩm sinh, và để khẳng định điều đó, người ta dựa vào bằng chứng của chính các bệnh nhân đã khẳng định trong đời họ chưa bao giờ biết đến một khuynh hướng xung năng tính dục nào khác. Nhưng thực tế còn có hai loại người đồng tính luyến ái khác nữa, đặc biệt là loại đồng tính cơ hội; do đó thực tế này không điều hoà được với giả thiết và đặc tính bẩm sinh của hiện tượng nghịch đảo giới tính. Đó cũng chính là lý do vì sao những người bảo vệ một giả thuyết như thế có xu hướng đáng lưu ý là tách riêng loại đồng tính luyến ái tuyệt đối ra, điều này sẽ dẫn tới phải từ bỏ một giải thích duy nhất và tổng quát về hiện tượng nghịch đảo giới tính. Vì vậy, sẽ phải chấp nhận trong một số trường hợp, sự nghịch đảo giới tính có tính chất bẩm sinh, còn trong một số trường hợp khác nó có căn nguyên khác.
Đối lập với quan niệm trên là quan niệm coi hiện tượng nghịch đảo giới là một đặc tính tập nhiễm của xung năng tính dục, dựa trên các điểm sau:
1. Ở đa số người đồng tính luyến ái, kể cả người đồng tính tuyệt đối, người ta có thể tìm lại được ấn tượng tính dục ở chặng khởi đầu cuộc sống của họ mà việc tình dục đồng giới chỉ là sự kéo dài và tiếp theo của cảm giác đó;
2. Ở những người khác, cũng đông không kém, thì các hoàn cảnh thuận lợi hay bất lợi ấn định ít nhiều muộn hơn sự nghịch đảo giới (chỉ giao du với những người cùng giới tính, chung chạ trong thời gian chiến tranh, những ngày ở trong tù, sợ các nguy hiểm xảy ra từ quan hệ tình dục khác giới, sống độc thân, bất lực...)
3. Thôi miên có thể loại trừ sự nghịch đảo giới tính, điều này sẽ khiến ta rất ngạc nhiên nếu ta công nhận đặc tính bẩm sinh của nó.
Đứng trên quan điểm đó, người ta có thể dẫn dắt chỗ phủ định hoàn toàn việc tồn tại một nghịch đảo giới tính bẩm sinh. Chính vì vậy có thể nói (Havelock Ellis) việc khám xét kỹ càng hơn các trường hợp nghịch đảo giới gọi là bẩm sinh hoàn toàn có thể làm sáng tỏ được một biến cố từ thời thơ ấu có ảnh hưởng quyết định đến xu hướng của dục năng libido; và biến cố đã biến khỏi ký ức hữu thực đó có thể được nhớ lại nhờ một kỹ thuật thích hợp. Đối với những người bảo vệ một quan niệm như thế, hiện tượng nghịch đảo giới tính có lẽ chỉ là một trong số vô vàn biến thể của xung năng tính dục, được quy định bởi sự ngẫu hợp ngoại cảnh.
Điều khẳng định trên, bề ngoài có vẻ chấp nhận được, lại không đứng vững trước sự thật dễ dàng kiểm tra, đó là đa số con người đã biết đến chính các trải nghiệm tính dục đó trong thời gian măng sữa (sự quyến rũ, thủ dâm lẫn nhau), nhưng không vì tế mà họ trở thành người tình dục đồng giới, hay chí ít tình trạng đó ở họ không bị kéo dài. Bởi vậy, người ta buộc phải giả sử rằng tình thế lựa chọn hoặc đặc tính bẩm sinh, hoặc đặc tính tập nhiễm là đều không bao quát triệt để được toàn bộ các sự thật, hay hó không thích ứng được với các thể thức khác nhau của hiện tượng nghịch đảo giới tính.
Còn nữa
Cuốn sách Phân tâm học và tình yêu do Đỗ Lai Thuý biên soạn, với các bản dịch của Phan Ngọc Hà, Tuệ Sỹ, Hoàng Thiên Nguyễn, Phạm Vĩnh Cư. Tác giả S. Freud, E. Fromm, A. Schopenhauer, V. Soloviev, Đỗ Lai Thuý. Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin phát hành năm 2003. Chúng tôi xin trích đăng cuốn sách này.