Sáng 28/2, Cổng thông tin điện tử Chính phủ tổ chức tọa đàm trực tuyến góp ý sửa đổi Hiến pháp với sự tham dự của các khách mời đến từ Bộ Tư pháp: Thứ trưởng Hoàng Thế Liên; Vụ trưởng Pháp luật hành chính Nguyễn Thị Kim Thoa; Vụ trưởng Pháp luật kinh tế Dương Đăng Huệ và Phó viện trưởng Khoa học Pháp lý Nguyễn Văn Cương.
- So sánh Hiến pháp hiện hành và bản dự thảo, nguyên tắc chủ quyền nhân dân và phương thức sử dụng quyền lực nhà nước của nhân dân được quy định rõ hơn. Theo ông, vì sao có sự bổ sung và phát triển quan trọng này?
- Ông Hoàng Thế Liên: Một bản hiến pháp được xây dựng cơ bản trên nguyên tắc chủ quyền nhân dân, tức là nhân dân giao quyền cho nhà nước, mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Trong bản Hiến pháp năm 1992, vấn đề này cũng được quy định. Tuy nhiên, tổng kết 9 năm thực hiện Hiến pháp 1992 thì chúng tôi thấy quy định vẫn chưa đủ. Người dân thực hiện quyền thông qua dân chủ trực tiếp mà trước hết là của HĐND. Lần này với cơ sở hiến định, chúng ta làm thế nào để dân chủ trực tiếp này có hiệu lực hơn, thực chất hơn và mang lại hiệu quả hơn.
Trước đây chúng ta nghĩ các cơ quan nhà nước khác vì nhân dân không trực tiếp bầu ra mà quốc hội bầu ra, do đó không trở thành phương thức để thực hiện quyền lực nhà nước, quyền lực của nhân dân. Lần này chúng ta khẳng định, dù các cơ quan nhà nước khác không do nhân dân trực tiếp bầu ra mà do người đại diện của nhân dân bầu ra, mà đó là Quốc hội hoặc HĐND thì họ cũng là một trong những chủ thể thực hiện quyền lực của nhân dân.
Các chuyên gia tham gia đối thoại trực tuyến. Ảnh: VGP |
- Trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tại Điều 2 khi nói về Nhà nước pháp quyền XHCN, đã bổ sung nội dung về kiểm soát quyền lực. Theo đó quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Sự bổ sung này ảnh hưởng gì tới các quy định ở phần về tổ chức bộ máy nhà nước?
- Bà Nguyễn Kim Thoa: Thứ nhất, nói đến tinh thần nhà nước pháp quyền thì năm 2001 chúng ta khi sửa hiến pháp đã nhấn mạnh Việt Nam là nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước là tập trung có sự phân công, phối hợp. Văn kiện Đại hội Đảng XI có ghi quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp nhưng có thêm cụm từ kiểm soát quyền lực.
Việc sửa đổi Hiến pháp lần này là thể chế hóa tinh thần vô cùng đổi mới của Đảng; thứ hai là nhằm khắc phục những hạn chế bất cập thời gian qua; thứ ba là nhằm phù hợp với tinh thần hội nhập quốc tế. Việc sửa đổi, bổ sung cụm từ kiểm soát quyền lực là logic, cần thiết.
Chúng ta thấy thuyết tam quyền phân lập (lập pháp, hành pháp, tư pháp) có từ xa xưa, qua nghiên cứu, hội thảo thì tam quyền phân lập ở nước khác, hay là phân công quyền lực ở nước ta là vô cùng quan trọng nhưng nếu không có thiết chế kiểm soát quyền lực thì sẽ có sự lạm dụng.
Kiểm soát đưa ra cơ chế giúp các cơ quan quyền lực không đi quá đà. Kiểm soát quyền lực là quan trọng nhưng việc đưa vào hiến pháp phải như thế nào để việc kiểm soát có hiệu quả, ở đây là lập pháp, hành pháp, tư pháp phải quy định rõ ràng, thì mới kiểm soát được.
- Ông Hoàng Thế Liên: Tôi cho rằng bổ sung yếu tố kiểm soát trong nguyên tắc tổ chức là vấn đề mới. Lý do thứ nhất, trong Điều 2 thừa nhận Nhà nước pháp quyền, mà nhà nước pháp quyền ra đời trong điều kiện xã hội dân chủ, mục tiêu là phát triển dân chủ bảo đảm quyền lợi của con người trong xã hội dân chủ. Điều này đặt ra tất yếu phải kiểm soát quyền lực để chống tình trạng lạm quyền, độc quyền.
Thứ hai, có quyền lực là có nguy cơ lạm quyền, lộng quyền và tha hóa quyền lực. Không thể nói quyền lực khi trao cho ai đó và bảo đảm thực hiện thông qua lòng tốt của họ mà phải có cơ chế kiểm soát. Thứ ba, người dân đã giao quyền lực thì phải có cơ chế kiểm soát, để bảo đảm quyền lực trong tay nhân dân và vì lợi ích của nhân dân.
Khi nói bổ sung yếu tố kiểm soát trong Điều 2 thì chúng ta phải có cơ chế hiến định để bảo đảm điều đó. Về vấn đề này, có 3 yếu tố: kiểm soát phải thông qua nhân dân, mà nhân dân kiểm soát bằng hệ thống quyền dân chủ trực tiếp và hệ thống các cơ quan, tổ chức xã hội do mình lập ra hoạt động vì lợi ích của mình, không phải ngẫu nhiêu mà Mặt trận tổ quốc được giao giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, phản biện chính sách… Yếu tố thứ hai, giữa các nhánh quyền lực phải có mối quan hệ thế nào để bảo đảm quyền lực được thực hiện hài hòa. Nếu phân định thế nào là lập pháp, hành pháp, tư pháp, và quyền của từng cơ quan đó thì cũng là một yếu tố để nhân dân giám sát.
Thứ ba, mặc dù đã có nhân dân kiểm soát quyền lực, cơ quan nhà nước kiểm soát thì cũng cần thiết lập một số thiết chế độc lập chuyên trách kiểm soát như Kiểm toán Nhà nước, Hội đồng Hiến pháp…
- So sánh giữa các quy định trong Chương II Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và bản Hiến pháp năm 1992 về quyền con người, quyền công dân, có rất nhiều điểm mới về quyền con người. Các khách mời bình luận gì về những điểm mới này?
- Ông Hoàng Thế Liên: Trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này, chương về quyền con người, quyền cơ bản của công dân là chương mới nhất. Có mấy điểm mới như sau:
Thứ nhất, chúng ta tách quyền con người với quyền công dân. Trước đây, trong Điều 50 của Hiến pháp, ở nước XHCN Việt Nam, quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được bảo đảm, thể hiện ở quy định quyền công dân được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Chúng ta thừa nhận quyền con người, sau đó thể hiện bằng quyền công dân và Hiến pháp chỉ quy định quyền công dân. Mà quyền công dân chỉ có người Việt Nam được hưởng. Như vậy, nhiều người sống trên đất Việt Nam nhưng không có quốc tịch Việt Nam, họ sống ở đây họ phải được tôn trọng, được bảo vệ quyền con người.
Thực chất quyền công dân cũng là quyền con người nhưng phải chia ra. Cái gì mọi người được hưởng, cái gì chỉ công dân Việt Nam được hưởng. Khi nói đến quyền tức chúng ta thừa nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện. Đối với phần lớn quyền con người phải ghi nhận và bảo vệ, còn quyền công dân thì thêm yếu tố bảo đảm thực hiện.
Vậy điều này thể hiện ở chỗ nào? Cái gì mọi người được hưởng là nhân quyền, còn cái gì là công dân được hưởng thì đưa thành phạm trù quyền công dân. Ngoài ra, chúng ta bổ sung một số quyền mới như nhân quyền có nghĩa là quyền sống, quyền sống trong môi trường lành mạnh.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên: "Tất yếu phải kiểm soát quyền lực để chống tình trạng lạm quyền, độc quyền". Ảnh: Nguyễn Hưng. |
Điểm mới quan trọng hơn là trước đây khi chúng ta nói đến quyền công dân đều có thành tố quyền này được đảm bảo thực hiện bằng pháp luật. Ở Việt Nam, chúng ta có luật của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các văn bản của Chính phủ, văn bản của địa phương. Như vậy, quyền được Hiến pháp quy định lại được bảo đảm bằng văn bản pháp luật nên sẽ khó mà kiểm soát được. Chính vì vậy, khi mà quyền đã được Hiến pháp quy định thì phải được bảo đảm bằng luật của Quốc hội, chứ không thể quy định bởi các cơ quan khác. Tuy nhiên, đối với một số quyền do nhạy cảm nên chưa thể xây dựng luật nên vẫn được bảo đảm quy định pháp luật.
Điểm mới nữa là với quyền được giao, khi thực thi thì giới hạn đến đâu, bởi liên quan tới quyền của người khác và của nhà nước. Lần này, chúng ta tiếp thu quy định của Công ước quốc tế về quyền chính trị, dân sự năm 1966; quyền kinh tế, văn hóa năm 1966 và tuyên ngôn nhân quyền năm 1948. Ở đây, quyền con người được giới hạn thực hiện trong một số điều kiện nhất định, để tránh tùy tiện trong quá trình thực hiện ví dụ vì lý do an ninh, quốc phòng, sức khỏe của cộng đồng… Đây là quy định rất mới và rõ ràng.
- Bà Nguyễn Kim Thoa: Một số quyền đưa ra trong lần sửa đổi này, tôi thấy lo ngại về thực hiện, ví dụ quyền có nhà ở đòi hỏi chúng ta phải có nguồn lực to lớn. Ví dụ chúng ta phải có hệ thống nhà ở xã hội cho những người vô gia cư qua đêm, hoặc như quyền an sinh, hoặc như quyền tự do kinh doanh. Hiến pháp năm 1992 ra đời trong bối cảnh chúng ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường nên ghi vào Hiến pháp quyền tự do kinh doanh nhưng hiện nay tình hình đã khác, mọi người đều có thể kinh doanh vậy đặt ra vấn đề ghi nhận thế nào trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Kinh doanh phải có điều kiện mà được quy định bởi hệ thống văn bản của pháp luật. Hoặc như quyền kết hôn, trong xã hội hiện nay, rất nhiều người sống độc thân nhưng vẫn tốt, vậy đặt ra vấn đề là quyền kết hôn có phải là quyền cơ bản hay không? Vậy mà chúng ta ghi vào Dự thảo là nam và nữ có quyền hôn nhân. Vấn đề này cần nghiên cứu thêm, liệu có cần đưa vào Hiến pháp không?
- Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 tại Điều 58 có quy định rõ “Quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ”, "Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội”. Trong quá trình góp ý kiến, có quan điểm cho rằng, quy định trên nên thay cụm từ “thu hồi đất”, bằng cụm từ “trưng mua quyền sử dụng đất”, chuyên gia bình luận gì về vấn đề này?
- Ông Dương Đăng Huệ: Chúng ta đang bàn về một vấn đề lớn của Hiến pháp và Luật Đất đai. Xung quanh đất đai có nhiều vấn đề phức tạp.
Thứ nhất là sở hữu toàn dân hay sở hữu nhà nước, vấn đề này đã bàn rồi và chúng ta quyết định vẫn quy định là sở hữu toàn dân. Thứ hai có tư nhân hóa đất đai hay không, trên quan điểm của tôi thì tư nhân hóa đất đai trong giai đoạn hiện nay là quá sớm. Thứ ba, khi nào nhà nước thu hồi đất. Việc khiếu kiện về thu hồi đất hiện nay người dân quan tâm nhất là thu hồi có đúng pháp luật hay không, mức độ bồi thường thỏa đáng.
Trong quá trình sửa đổi Hiến pháp, Luật Đất đai đặt ra vấn đề về hình thức thu hồi đất. Trước đây thì thu hồi đất là quyết định hành chính, quan điểm khác hiện này là dùng từ trưng mua. Quan điểm của tôi là nên dùng từ thu hồi vì thể hiện đúng bản chất nhà nước đại điện quyền sở hữu toàn dân về đất, và cá nhân, tổ chức chỉ được giao quyền sử dụng, vì vậy, khi cần thiết thì phải thu hồi chứ không phải trưng mua. Trưng mua chỉ phù hợp với tài sản là sở hữu của cá nhân hay tổ chức.
- Ông Hoàng Thế Liên: Đất đai là vấn đề rất phức tạp, trong quá trình soạn thảo có 3 quan điểm. Có người cho rằng quay trở lại Hiếp pháp 1959 là đa dạng hình thức sở hữu đất đai; ý kiến thứ hai là vẫn giữ sở hữu toàn dân về đất đai nhưng đất ở và đất nông nghiệp bảo đảm như quyền sở hữu; thứ ba là giữ nguyên.
Qua tổng kết, có thể khẳng định những yếu tố chưa hiệu quả, gây bức xúc, tiêu cực trong vấn đất đai thì lỗi bắt nguồn không phải từ chế định mà do chúng ta thể chế hóa pháp luật về chế định đất đai là sở hữu toàn dân là chưa đầy đủ; thứ hai là những bức xúc, tiêu cực, không hiệu quả trong quản lý đất đai có nguyên nhân từ yếu kém trong quản lý. Như vậy cần tiếp tục khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân còn những hạn chế nêu trên sẽ phải khắc phục.
Lần này chúng ta khẳng định quyền sử dụng đất là quyền tài sản, là bước tiến mới trong tư duy và rất có lợi cho người dân và quyền này được pháp luật bảo vệ đầy đủ.
Theo Chinhphu.vn