Cao Việt Dũng -
Một bản dịch nhỏ có thể có bao nhiêu lỗi? Câu trả lời: có thể rất nhiều, thậm chí... đếm mãi không hết. Bản dịch Michel Butor - từ thời của tiểu thuyết đến thời của thi ca của ông Trần Hinh đăng trên tờ Văn nghệ, số 29, 17/7/2004 (dịch từ bài phỏng vấn Le poète horticulteur do André Clavel thực hiện, đăng trên tờ Lire tháng Năm 2004) có nhiều lỗi đến mức làm người so sánh giữa nguyên bản và bản dịch phải kinh ngạc. Ông Trần Hinh có thể cãi ông chỉ trích dịch và viết lại nhiều chỗ, nhưng những lỗi mà tôi sẽ lần lượt chỉ ra dưới đây sẽ phần nào chứng tỏ sự cẩu thả, hiểu biết hạn chế về cả ngôn ngữ và văn học Pháp của người dịch.
Kinh nghiệm đọc bản dịch của tôi là khi gặp quá nhiều câu lủng củng trong một văn bản, có thể khẳng định là có "dấu vết" của dịch sai. Lẽ dĩ nhiên điều này không phải bao giờ cũng đúng, nhưng ở trường hợp bản dịch của ông Trần Hinh thì nó hoàn toàn chuẩn xác. Đọc đến câu "Nhịp điệu này rất phù hợp với tôi, chính nó đã đến được tốt nhất bộ cảm nhận sâu lắng bên trong tôi", tôi đã cảm thấy có điều gì đó kỳ cục. Tìm được nguyên bản bài phỏng vấn bằng tiếng Pháp rất đơn giản. Tờ báo Lire của ông Bernard Pivot vẫn luôn cố gắng tỏ ra hào hiệp bằng cách đăng gần như toàn bộ nội dung báo giấy trên mạng Internet...
Lỗi ngôn ngữ và lỗi ngoài ngôn ngữ
"Từ vài chục năm nay, tôi viết thơ một cách đều đặn, thường xuyên là loại thơ tám và bảy âm tiết" là sản phẩm của Trần Hinh khi dịch câu "Depuis une vingtaine d’années, j’écris des vers de plus en plus réguliers, souvent des octosyllabes ou des heptasyllabes". Rõ ràng ông Trần Hinh không phân biệt được tính từ và trạng từ nên mới dịch "réguliers" là "một cách đều đặn" và qua đó làm nghĩa câu bị biến đổi hoàn toàn; kỳ thực, ý câu đó là "Từ khoảng hai mươi năm nay, tôi ngày càng thiên về viết thơ có vần luật, nhất là thơ tám và bảy âm tiết". Cũng chuyện âm tiết, chỉ đến đoạn ngay sau người đọc đã không còn hiểu mình đang được dẫn đi đến đâu khi ông Trần Hinh dùng cụm từ "Thứ kỹ thuật 12 âm tiết này". Tưởng như Butor đột nhiên đổi ý, từ thơ tám và bảy âm tiết nhảy sang thơ alexandrin. Dĩ nhiên sự thật không phải như vậy! "Cette technique sérielle" không có chút ám chỉ nào đến con số, mà là một thuật ngữ mượn từ âm nhạc cổ điển, ý muốn nói cái kỹ thuật xâu chuỗi, kết hợp thành các sơ đồ linh hoạt - đã được nhà văn nêu ngay ở câu trước.
Đoạn Michel Butor nói về sứ mệnh thi ca là đoạn quan trọng nhất của cả bài phỏng vấn, nhưng thật đáng tiếc vì nó đã bị Trần Hinh bóp méo hoàn toàn. Câu "Nó giúp chúng ta tìm lại được cuộc sống tin thần mới để đặt ra sự lựa chọn xen kẽ giữa những hiệu triệu tôn giáo mỗi ngày một độc quyền hơn hiện nay và con đường hòa nhập" (sic) lủng củng và sai hoàn toàn về ý. Sứ mệnh thứ nhất của thi ca theo đúng nguyên bản là "giúp chúng ta tìm ra một tính chất tinh thần mới, tạo nên những huyền thoại mới, nhằm cung cấp cho chúng ta một lựa chọn khác, ngoài những diễn ngôn tôn giáo ngày càng trở nên độc tôn và thậm chí cuồng tín." [Elle nous aide à trouver une nouvelle spiritualité, à forger de nouvelles mythologies, afin de proposer une alternative aux discours religieux actuels, lesquels sont de plus en plus monolithiques, voire intégristes]. Trần Hinh đã nhầm "voire" với "voie", từ thứ nhất có nghĩa "thậm chí" trong khi từ thứ hai có nghĩa là "con đường". Đó là chưa nói đến những lỗi "nho nhỏ" như một cuộc sống tinh thần mới thì không thể "tìm lại được", đơn giản vì nó là mới, và lỗi không hiểu nghĩa từ "intégristes" trong bối cảnh tôn giáo.
Sứ mệnh thứ hai của thi ca không "đặc biệt" như Trần Hinh hiểu, mà là quan trọng/thiết yếu (essentielle). "En les détournant de leur usage routinier" không phải là "bằng việc chuyển hướng những gì quá cũ kỹ" mà muốn nói đến việc cung cấp ý nghĩa, cách dùng khác cho ngôn ngữ bình thường. Ở đây Butor đề cập đến các cấp độ ngôn ngữ (registres de langue) và vai trò của nhà thơ trong việc sáng tạo ngôn từ. Chính từ nhận xét đó, một cách logic, Butor sẽ dẫn câu thơ của Mallarmé mà Trần Hinh hoàn toàn không hiểu (tôi sẽ trở lại sau). Ở sứ mệnh thứ hai này Trần Hinh còn một lỗi "nhỏ" nữa khi dịch "plan musical" là "trên bình diện âm nhạc". Đây không phải là âm nhạc, mà là nhạc tính, nhạc tính của thơ, đã được Verlaine nói đến ("De la musique avant toute chose").
"Thơ ca xóa đi những con đường bụi bặm, cho phép tránh những bãi ngầm nguy hiểm của thứ chủa nghĩa giáo điều trong khoa học và những từ ngữ khô cứng". Tiếp tục sứ mệnh thứ ba của thi ca, và Trần Hinh tiếp tục những sai lầm của mình! Khi viết "ils tracent des chemins buissonniers", Butor không hề muốn nói các nhà thơ "xóa đi những con đường bụi bặm". Trong tiếng Pháp, "tracer" nghĩa là "vạch ra", ở đây có nghĩa là các nhà thơ mở những con đường mới, đi qua các bụi rậm (chứ không phải bụi bặm!).
Trần Hinh vẫn không thôi "hào phóng" những lỗi lầm của mình khi chuyển sang sứ mệnh thứ tư của thi ca (vẫn trong cùng một đoạn văn!). Đọc hai câu cuối đoạn dịch tôi ngờ là người dịch muốn đùa cợt gì chăng, vì thực ra cấu trúc của chúng không quá khó, không hề đặt ra những cái "bẫy" dịch thuật. Tôi cũng ngờ là Trần Hinh đã "ăn gian", bỏ bớt mấy chữ và qua đó loại trừ luôn cơ hội giúp người đọc hiểu ông đang dịch cái gì. Đoạn từ "thơ ca không bao giờ thực dụng... tạo ra nhiều giá trị khác" phải được hiểu như sau: "vì nó [thi ca] không mang lại lợi nhuận, gần như không bao giờ nó có thể làm giàu cho người viết ra chúng và không thể bị rút gọn thành ngôn ngữ đồng tiền. Đối mặt với những thương gia độc tài, các nhà thơ chứng tỏ hoạt động sống của con người có thể còn được các giá trị khác điều khiển." [comme elle n’est jamais lucrative, qu’elle n’enrichit presque jamais ceux qui l’écrivent et qu’elle n’est pas réductible au langage de la monnaie, elle nous aide à résister à la tentation mercantile, si forte actuellement. Face à la tyrannie des marchands, les poètes montrent que l’activité humaine peut être régie par d’autres valeurs]. Trần Hinh có vẻ nhầm từ "tyranie" (độc tài) với người khổng lồ (chắc là Titan?) và không hiểu sự khác nhau giữa thể chủ động và bị động của động từ (trường hợp "régie" trong câu "Face à la tyrannie des marchands, les poètes montrent que l’activité humaine peut être régie par d’autres valeurs", đã bị ông dịch ra thành "Đối lập với gã khổng lồ buôn bán, các nhà thơ chỉ ra rằng, hoạt động nhân văn có thể tạo ra nhiều giá trị khác.", nghĩa là không có gì chung với nguyên bản hết !)
Cái thói dịch "mot-à-mot" cũng khiến ông Trần Hinh có những câu dịch ngô nghê hết chỗ nói, chẳng hạn câu "Đó là hai cánh của sự lang thang của tôi" (dịch từ "deux volets de mes vagabondages"), hay "rose des vents" được ông dịch thành "biểu đồ về gió". Thực ra "rose des vents" là biểu tượng nhỏ hình ngôi sao chỉ 4 hướng chính và 4 hướng phụ của địa lý, thường in trên bản đồ, và nhất định là không liên quan gì đến gió.
Tôi cũng không đồng ý lắm với ông Trần Hinh khi ông dịch "Hexagone" và "Heptagone" là "Lục diện" và "Thất diện". Dịch thế không có gì sai, nhưng có vẻ như khi nói về tác phẩm mới của mình, Butor muốn so sánh với hình "Lục giác" và "Thất giác" thì đúng hơn.
Tôi suýt bỏ qua mấy lỗi ở ngay phần giới thiệu đầu tiên. 1.175 quyển sách trong phòng Butor là sách của ông viết, một mình hoặc với người khác, chứ không phải 1.175 cuốn bất kỳ như bản dịch của Trần Hinh cho chúng ta biết. Tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà Tiểu thuyết mới là "La Modification" chứ không phải "Modification".
Thiếu và thừa
Đứng trước một văn bản, quyết định trích dịch nó, dĩ nhiên phải có lựa chọn. Lựa chọn của ông Trần Hinh không hề tối ưu vì nó vừa thừa vừa thiếu. Nguyên bản có một so sánh rất quan trọng giữa cách sống của Butor và đời ẩn dật của Montaigne, với ngụ ý ngầm so sánh nhà văn hiện đại với cây đại thụ của nền văn học Pháp. Ông Trần Hinh cũng bỏ mất đoạn cuối khi Butor nói về quan niệm của mình về nghề làm vườn, về tình yêu đối với cây cối và những mảnh vườn của mình, thể hiện rất rõ thái độ sống thanh thản của nhà văn lúc về già; thế nhưng ông Trần Hinh lại đưa vào những chi tiết không mang ích lợi gì cho sự hiểu của người đọc, chẳng hạn chi tiết "tôi ghi lại tất cả trong những cuốn sổ ghi chép nhỏ của mình, Rhodi số 12". Tôi ngờ rằng ông Trần Hinh và đại đa số người đọc không hình dung được "Rhodi số 12" là gì, bởi trước hết nó là "Rhodia" chứ không phải "Rhodi", và chỉ là tên một loại sổ tay dạng bloc, một chi tiết có thể bỏ mà không ảnh hưởng gì đến nội dung bài viết.
Mallarmé đã thực sự nói gì?
Tôi xin đi đến lỗi nặng nề nhất, cái bắt tôi viết bài này, bởi thực ra ngồi tìm lỗi trong các bản dịch đăng trên báo chí Việt Nam thì khác nào việc ngồi đãi sạn gạo thời bao cấp... Đó là khi ông Trần Hinh dịch câu thơ của Mallarmé thành "cần phải đưa ra một ý nghĩa thuần khiết nhất cho những con chữ lang thang".
Dĩ nhiên có thể dễ dàng nhận ra nguyên bản tiếng Pháp là câu thơ trích từ bài sonnet "Le tombeau d’Edgar Poe". Nguyên bản thân bài thơ đã nổi tiếng, nhưng câu được Butor trích dẫn còn nổi tiếng gấp bội, trở thành thành ngữ, câu cửa miệng của dân Pháp có chút học vấn, giống như những câu "Chữ tài liền với chữ tai một vần" hay "Hôm nay trời nhẹ lên cao / Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn" trong tiếng Việt vậy.
Thứ nhất, Trần Hinh sử dụng sai động từ khi ông viết "đưa ra". "Donner" ở đây không có nghĩa "đưa ra", "chìa ra" mà là "đưa cho", có đối tượng hẳn hoi, và đối tượng đó là "les mots de la tribu". Tiếp theo, Trần Hinh quá cẩu thả khi dịch "plus pur" thành "thuần khiết nhất", trong khi thực ra nó là "thuần khiết hơn". Lỗi thứ ba và cũng là lỗi nghiêm trọng nhất là khi Trần Hinh dịch "les mots de la tribu" thành "những con chữ lang thang". Dịch như thế chứng tỏ Trần Hinh hoàn toàn không hiểu gì về câu thơ của Mallarmé, và nhìn chung không hiểu gì về toàn bộ Mallarmé.
Stéphane Mallarmé, nhà thơ nghèo khổ gần cả đời sống quạnh hiu trong căn hộ tồi tàn ở số 89 phố Rome, Paris, dành toàn bộ thời gian để lao vào tìm kiếm câu chữ, những vần thơ khó và đẹp như đá tảng, quyết không để bất kỳ thứ gì tầm thường lọt vào ngôi đền của thi ca. Kiểu Francis Ponge sau này. Khi ông chết đi, gia tài thơ của ông để lại cực kỳ nhỏ bé, không những thế ông còn yêu cầu con gái mình đốt đi toàn bộ những bản thảo dở dang; nhưng di sản thơ của Mallarmé đã đủ để mở ra cả thế giới thơ hiện đại của Pháp, ông trở thành "hoàng tử của thi ca" sau khi Verlaine chết đi, và thần tượng của các nhà thơ trẻ như Valéry, Claudel, Saint John-Perse.
Trở lại với câu thơ trong bài "Le Tombeau d’Edgar Poe". Được nhà thơ hình dung như lời của thiên thần, câu "Donner un sens plus pur aux mots de la tribu" nói đến sứ mệnh cao nhất của nhà thơ, theo nghĩa đen là cung cấp nghĩa thuần khiết hơn cho những từ tầm thường của đời sống hàng ngày, những từ của "tribu" (bộ lạc, đám đông). Câu thơ này cho thấy rất rõ quan niệm của Mallarmé về ngôn ngữ thi ca: nó không có chỗ cho những gì bình thường, đời thường, mà phải được tinh lọc, chọn lựa. Bản thân Mallarmé cả đời gần như chỉ làm một công việc là sửa đi sửa lại các bài thơ của mình. Bài L’Après-midi d’un faune gồm 110 câu được sửa chữa trong 10 năm, có tới 4 phiên bản; bài thơ dài Hérodiade vẫn ở trạng thái dang dở... Không những mắc lỗi dịch "mot-à-mot", ông Trần Hinh còn mắc lối suy diễn liều lĩnh những gì mình không biết, thay vì việc bỏ thời gian tìm hiểu. Chỉ cần biết một chút về Mallarmé, hẳn là ông Trần Hinh có thể biết không bao giờ nhà thơ viết một câu ất ơ như "đưa ra một ý nghĩa thuần khiết nhất cho những chữ lang thang".
Nói gì sau khi chỉ ra những lỗi trong bản dịch của ông Trần Hinh bây giờ? Là người nghiên cứu văn học Pháp, hẳn ông Trần Hinh có biết đến khái niệm "la rigueur" (độ chặt chẽ, tính chính xác) trong tiếng Pháp, khái niệm nền tảng của môn version (dịch xuôi) mà bất kỳ ai học về ngôn ngữ và văn chương phải biết kể từ khi mới nhập môn. Tôi mong sau này ông Trần Hinh quan tâm đến khái niệm đó khi phải đối mặt với một văn bản cần chuyển sang tiếng Việt. Có thế ông mới có thể tránh được lãng phí nhiều mặt như ông đã gây ra khi dịch bài phỏng vấn Michel Butor vừa rồi.